Đánh giá đầy đủ tác động sâu rộng khi thay đổi khái niệm "doanh nghiệp nhà nước"

Chiều 15-7, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương tổ chức hội thảo về việc sửa đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước và dự kiến sửa Luật Doanh nghiệp.
Phó Viện trưởng CIEM Phan Đức Hiếu phát biểu tại hội thảo
Phó Viện trưởng CIEM Phan Đức Hiếu phát biểu tại hội thảo

Theo Phó Viện trưởng CIEM, ông Phan Đức Hiếu, Nghị quyết số 12-NQ/TW quy định doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối. Báo cáo số 480/BC-CP ngày 12/10/2018 đã thống kê có 526 doanh nghiệp do nhà nước nắm 100% vốn, bên cạnh đó có 294 công ty cổ phần có cổ phần nhà nước do Bộ, UBND quản lý.

Trong khi đó, theo Tổng cục Thống kê, tính đến ngày 1-1-2018, cả nước có 1.204 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thuộc mọi cấp độ quản lý; 1.282 công ty cổ phần có cổ phần nhà nước lớn hơn 50% thuộc mọi cấp quản lý (bao gồm cả công ty con của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước). Như vậy, trong trường hợp mở rộng tối đa khái niệm doanh nghiệp nhà nước thì ít nhất có thêm 1.282 công ty cổ phần được gọi là doanh nghiệp nhà nước và trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp nhà nước.

Hiện có 9 luật quy định về chủ thể doanh nghiệp nhà nước gồm: Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Quản lý tài sản công, Luật Tiếp cận thông tin, Bộ luật Dân sự, Luật Thủy lợi, Luật Lâm nghiệp, Luật Kiểm toán nhà nước. Trong đó, các luật gây tác động trực tiếp nếu một doanh nghiệp được xác định là doanh nghiệp nhà nước gồm: Luật Đấu thầu (toàn bộ các dự án đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước, từ mọi nguồn vốn, phải thực hiện theo luật); Luật Xây dựng (Điều 60 và Điều 63), Luật Ngân sách nhà nước (Điều 5, 35 và 37).

Ngoài ra doanh nghiệp này cũng phải chịu sự tác động của các văn bản dưới luật.

Nhóm nghiên cứu CIEM cho biết, hiện có 4 phương án quy định khái niệm doanh nghiệp nhà nước tại Luật Doanh nghiệp gồm:

Phương án trên 65% vốn điều lệ: mức độ chi phối là tuyệt đối, nhà nước quyết định tất cả các vấn đề hệ trọng của doanh nghiệp;

Phương án trên 50% vốn điều lệ: mức độ chi phối chủ động cộng với quyết định phần lớn các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp (gồm nhân sự, điều lệ);

Phương án trên 35% vốn điều lệ: mức độ chi phối là thụ động/thực hiện quyền phủ quyết để định hướng doanh nghiệp;

Phương án cuối là chỉ cần có vốn nhà nước, nhà nước có quyền trực tiếp/gián tiếp bổ nhiệm các thành viên HĐQT, Tổng giám đốc, quyết định điều lệ doanh nghiệp: mức độ chi phối là quyết định những vấn đề lớn của doanh nghiệp không phụ thuộc vào tỷ lệ sở hữu.

Cho rằng việc quyết định chọn lựa phương án nào cần tính tới một số yếu tố, chẳng hạn như tâm lý của nhà đầu tư, không nên để có tình trạng nhà đầu tư tư nhân giữ đa số cổ phiếu nhưng vẫn bị nhà nước kiểm soát, gây khó khăn, vướng mắc trong quản trị doanh nghiệp. Tác động đến tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước cũng phải tính tới. “Phải thận trọng, nếu không sẽ có một số rất lớn doanh nghiệp có một phần vốn nhà nước lại trở thành doanh nghiệp nhà nước”, CIEM nhấn mạnh. Từ đó, phương án hợp lý mà CIEM đề xuất là phương án có trên 50% vốn điều lệ.

Tin cùng chuyên mục