“Giải oan” phế liệu giấy nhập khẩu

Bao bì là mặt hàng rất quan trọng, đóng góp lớn trong thành công của việc xuất khẩu (XK) hàng hóa trong nước thời gian qua.
“Giải oan” phế liệu giấy nhập khẩu

Lâu nay, nguồn giấy để làm bao bì chủ yếu được làm từ nguyên liệu là giấy thu hồi nhập khẩu (NK). Tuy nhiên, thời gian gần đây, việc các cơ quan chức năng siết chặt NK phế liệu khiến hàng ngàn container nguyên liệu giấy thu hồi nhập về Việt Nam bị ách tắc.

Thống kê nhanh của Hiệp hội Giấy và Bột giấy (VPPA) cho thấy, chỉ tính từ ngày 26-6 đến 10-7, riêng phí lưu container, ước gây thiệt hại cho các doanh nghiệp (DN) NK giấy phế liệu lên đến gần 30 tỷ đồng, chưa kể những thiệt hại trong sản xuất do phải dừng máy hay bị phạt hợp đồng do giao hàng không đúng hẹn…

Dự kiến trong thời gian tới, số lượng container sẽ tăng gấp đôi khi tàu cập cảng. Với số lượng lưu kho lớn và mức chi phí lưu kho 1 triệu đồng/container/ngày, mức thiệt hại sẽ tăng thêm nhiều lần. 

Theo ông Đặng Văn Sơn, Tổng Thư ký VPPA, Viện trưởng Viện Công nghiệp giấy và xenluylo, việc các cơ quan nhà nước siết chặt quản lý, giám sát chặt chẽ các DN NK phế liệu là việc làm cần thiết, không để lợi dụng chính sách NK những chất thải nguy hại, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân, môi trường sống và toàn xã hội.

Tuy vậy, khi Tổng cục Hải quan ban hành liên tiếp Văn bản số 3438 và 3738 trong khoảng thời gian rất ngắn và thời điểm có hiệu lực gần như ngay lập tức; trong đó, yêu cầu hàng hóa là phế liệu phải lấy mẫu gửi Cục Kiểm định Hải quan để thực hiện phân tích, nhưng không quy định cụ thể thời gian lấy mẫu, thời gian trả kết quả giám định khiến các DN trở tay không kịp.

“Chỉ một mặt hàng giấy thu hồi NK làm nguyên liệu sản xuất, vừa phải có giấy chứng nhận phù hợp quy chuẩn kỹ thuật môi trường của một tổ chức giám định do Bộ Tài nguyên và Môi trường chỉ định vừa phải được Cục Kiểm định Hải quan kiểm định theo cùng quy chuẩn này. Dẫn đến làm tăng thời gian chờ đợi thông quan của lô hàng, gây ách tắc hàng hóa tại cảng, tăng chi phí lưu kho, lưu bãi và các chi phí khác; ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, gây lãng phí lớn cho DN và xã hội, làm hàng hóa của Việt Nam không thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của nước ngoài trên thị trường trong và ngoài nước”, ông Đặng Văn Sơn phân tích.

Ông Đặng Văn Sơn cũng cho rằng, sản xuất giấy (kể cả giấy tái chế) không phải là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Trên thế giới từ lâu cũng đã có nhiều chính sách hỗ trợ việc thu gom, tái chế giấy và không coi giấy đã qua sử dụng dùng làm nguyên liệu sản xuất giấy tái chế là giấy phế liệu (waste paper) mà gọi là giấy thu hồi (recycled paper) và không quản lý mặt hàng này như tất cả các loại phế liệu khác. Do đó, những quy định liên quan đến NK như trên hoàn toàn chưa thực sự phù hợp với Nghị quyết 19/2018/NQ-CP ngày 15-5-2018 của Chính phủ về việc tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo.

Trên thực tế, trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã có các điều khoản về việc khuyến khích thu gom, tái sử dụng và tái chế phế liệu (Điều 6 Khoản 3), nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn quy định cụ thể. Vì vậy, để “giải oan” cho ngành giấy, trước mắt cần tháo gỡ những vướng mắc nêu trên, song song với việc xem xét sớm ban hành các văn bản quy định cụ thể về việc khuyến khích thu gom, tái chế và tiêu dùng giấy sản xuất từ giấy phế liệu. Nếu làm tốt việc này sẽ giảm một lượng lớn giấy thu hồi NK từ nước ngoài cho sản xuất; đồng thời, cũng là biện pháp sử dụng hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Mặt khác, để giảm lượng phế liệu NK, cơ quan Nhà nước cần có các chính sách, giải pháp tăng cường thu gom tái chế giấy hiệu quả, khuyến khích người tiêu dùng ý thức hơn trong việc sử dụng các sản phẩm giấy; từ đó, góp phần bảo vệ môi trường và hạn chế NK giấy phế liệu.

Tin cùng chuyên mục