Phát triển ngành điều: Tránh lặp lại vết xe đổ

Nỗi lo về vệ sinh an toàn thực phẩm
Phát triển ngành điều: Tránh lặp lại vết xe đổ

Trong khi nhiều mặt hàng nông thủy sản giảm lượng và giá trị xuất khẩu thì nhân hạt điều và hồ tiêu là hai điểm sáng. Theo Chủ tịch Hiệp hội Điều Việt Nam (Vinacas) Nguyễn Đức Thanh, thông tin tại hội nghị quốc tế mới đây về các loại hạt cho thấy, Việt Nam không chỉ là nước xuất khẩu nhân điều đứng đầu từ 9 năm qua mà hiện nay còn là nước có lượng nhân điều chế biến vượt qua ngôi vị số 1 của Ấn Độ.

Chế biến nhân điều tại một nhà máy ở Bình Dương

Nỗi lo về vệ sinh an toàn thực phẩm

Chủ tịch Vinacas cho biết, 6 tháng đầu năm các doanh nghiệp xuất khẩu được 150 ngàn tấn nhân điều với kim ngạch 1,1 tỷ USD. Với tình hình này, cả năm 2015 có thể xuất khẩu 300 ngàn tấn nhân điều với giá trị 2,2 tỷ USD, ít nhất cũng bằng năm 2014. Nếu tính luôn những sản phẩm từ hạt điều như sản phẩm chế biến sâu tạo giá trị gia tăng hay dầu hạt điều thì kim ngạch xuất khẩu cả ngành điều khoảng 2,5 tỷ USD. Yếu tố tích cực của xuất khẩu nhân điều hiện nay là giá xuất khẩu tốt hơn năm rồi, các chuyên gia cho rằng, do hậu quả của khô hạn nên giá nhiều loại hạt trên thế giới đều tăng lên, trong đó có hạt điều.

Tuy vậy, ngành chế biến điều cũng đứng trước những thách thức. Vấn đề nóng hiện nay là an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) khi không ít container nhân điều xuất khẩu đã bị trả về do nhiễm vi khuẩn Salmonella hay E.coli. Trong đó có trường hợp bị lây nhiễm chéo khi hàng đã khử trùng như Cafe Control nhận định. Hiện nay, đoàn FDA - Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (Food and Drug Administration) đang kiểm tra ATVSTP tại các nhà máy chế biến. Số liệu sơ khởi cho thấy, khảo sát 32 doanh nghiệp (DN) có 15 DN có vấn đề về ATVSTP. Ngay cả sản phẩm tại nhà máy cũng không đồng đều về chất lượng do có nguốn gốc xuất xứ khác nhau. Khách hàng ưa chuộng nhân điều trong nước do chất lượng hơn hẳn về vị thơm, ngon nhưng đã bị lẫn lộn khi chế biến với điều thô nguyên liệu nhập từ các nước, nhất là châu Phi. Điều này dễ làm mất uy tín và ảnh hưởng đến việc xây dựng thương hiệu nhân điều Việt Nam. Ông Nguyễn Đức Thanh cho biết, nguyên liệu trong nước, khi chế biến và bán cho khách hàng có giá cao hơn 30cent/kg so với nguyên liệu chế biến từ châu Phi.

Hạn chế khác là tình trạng các DN cạnh tranh với nhau theo kiểu giá thấp để đẩy mạnh xuất khẩu trong khi các DN của Brazil và nhất là Ấn Độ làm ngược lại, cạnh tranh giá bán cao với chất lượng đồng đều và giữ uy tín trong thương mại, ký hợp đồng là thực hiện đầy đủ trước các biến động thị trường và đảm bảo vấn đề ATVSTP. Đó là lý do vì sao nước này có giá bán nhân điều cao hơn Việt Nam. Việc có quá nhiều DN tham gia xuất khẩu điều, năm 2014 là 345 DN, trong đó DN có kim ngạch xuất khẩu dưới 5 triệu USD/năm chiếm 73%, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh, chất lượng sản phẩm xuất khẩu không đồng đều, làm thiệt hại chung cho cả ngành. Về lâu dài đây là điều bất lợi cho ngành điều Việt Nam. Năm 2014, kiểm tra 265 cơ sở, có 119/265 cơ sở xếp loại C, chiếm 44,9%. Cần phải xử lý nghiêm đối với các cơ sở xếp loại C (không đảm bảo điều kiện về ATVSTP), để giữ uy tín sản phẩm điều Việt Nam, tạo nên sự công bằng trong đầu tư và sản xuất kinh doanh giữa các cơ sở chế biến nhân điều. 

Sự bất cập của ngành điều

 

* Hiện nay, năng suất bình quân của cây điều là khoảng 1,2 tấn/ha, nhưng trong số 50 nông dân được tuyên dương mới đây, năng suất cao nhất lên đến 4,5 tấn/ha, bình quân trên 2,5 tấn/ha.

 

Hạn chế lớn nhất của ngành điều là sự bất cập giữa tình trạng xuất khẩu tăng đều, chiếm vị trí cao, nhưng diện tích và sản lượng điều thô trong nước liên tục giảm nên bị lệ thuộc nguyên liệu nhập khẩu, chất lượng không bằng trong nước. Năm 2007, diện tích điều là 444 ngàn hécta, nhưng do người trồng điều ít chăm sóc, năng suất bình quân từ 1,1 tấn/ha xuống 0,8 tấn/ha. Thu nhập không cao nên lợi thế cạnh tranh kém, diện tích điều sụt giảm, đến năm 2014 chỉ còn 294 ngàn hécta. Từ chỗ dùng nguyên liệu chủ yếu trong nước để chế biến nay ngành điều phụ thuộc vào nhập khẩu, với số lượng hơn hai lần nguồn nguyên liệu trong nước (năm 2014), trở thành nước nhập khẩu hạt điều thô thứ hai thế giới, lượng nhập gần bằng Ấn Độ, nước nhập khẩu lớn nhất và hơn 10 lần nước nhập khẩu thứ ba là Brazil. Xác định đây là cây trồng có lợi thế của Việt Nam, từ năm 2013, Bộ NN-PTNT thực hiện nhiều biện pháp để giúp bà con nâng cao năng suất điều, trong đó có giải pháp giống. Với sự hiệp lực từ nhà nước, hiệp hội đến DN và nông dân, năm 2014 năng suất điều đã tăng lên 0,1tạ/ha so với năm cao nhất, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, cơ sở để giữ ổn định diện tích vùng nguyên liệu, tạo sự phát triển bền vững cho ngành điều. Diện tích điều 2 năm nay cũng nhích lên thêm gần 4.000ha. 

Ông Phạm Văn Nguyên, chuyên viên về điều, cố vấn Ban Chấp hành Vinacas cảnh báo, nhu cầu cây giống hiện nay rất cao để tái canh và cải tạo 60 ngàn hécta từ nay đến 2020, mỗi năm cần vài ba triệu cây giống. Cành ghép phải từ cây từ 8 tuổi trở lên khi năng suất ổn định. Nếu không kiểm soát được, không loại trừ nhiều nơi chạy theo lợi nhuận khi sử dụng cả cây điều 3 - 4 tuổi để nhân giống. Đây sẽ là điều tệ hại có thể lập lại như chục năm về trước, hậu quả là năng suất điều không thể tăng mà còn sụt giảm với gần 50% diện tích trồng giống ghép không đạt chuẩn. Có đơn vị ở Tây Nguyên phải thanh lý toàn bộ 3.000ha điều vì giống ghép chưa đủ tuổi. Vì vậy, không nên vì thành tích chạy theo số lượng mà ảnh hưởng đến cả sự phát triển bền vững của ngành điều.

CÔNG PHIÊN

Tin cùng chuyên mục