Nhà thơ Triệu Công Tinh Trung: Khát vọng tự do, hòa bình và sáng tạo

Nhà thơ Triệu Công Tinh Trung: Khát vọng tự do, hòa bình và sáng tạo

Tổ quốc bị chiến tranh chia cắt, ông khát vọng tự do hòa bình bằng con đường dấn thân tranh đấu. Đất nước thống nhất, ông khát vọng tự do sáng tạo bằng con đường thơ chuyên nghiệp nhằm tái hiện vẻ đẹp tiềm ẩn từ vui buồn của số phận con người, thiên nhiên, vũ trụ. Hội Nhà văn TPHCM vừa tổ chức giới thiệu tập thơ mới nhất của ông - Hạt sứ giả tâm linh.

Cùng quê hương đứng lên

Triệu Từ Truyền và Triệu Cung Tinh là hai bút danh quen thuộc của nhà thơ có tên thật Triệu Công Tinh Trung, bí danh Tư Truyền, sinh ngày 9-4-1947 tại Sa Đéc, Đồng Tháp bên bờ sông Tiền.Như trong bài thơ Thành phố phù sa ông tự sự: “Má qua Sa Đéc sinh con đầu lòng/chôn nhau cắt rốn vào phù sa ven sông/muốn con mình lớn lên cùng trái cây ngọt/êm đềm trong vườn bông cúc bông hồng/quê hương đứng lên chìm trong chiến chinh/cá phơi bụng đầy kinh ruộng đồng xao xác”.

Buổi giới thiệu tập thơ Hạt sứ giả tâm linh tại Hội Nhà văn TPHCM (Nhà thơ Triệu Công Tinh Trung - thứ tư từ phải sang).

Ước muốn của bà má Sa Đéc về con đã tan biến. Xứ miệt vườn chìm trong đạn bom. Má dắt đàn con thơ sơ tán lên Sài Gòn. Trong hoàn cảnh gian khó, Tinh Trung giúp má làm lụng mưu sinh, cùng các em mình cố gắng học hành. Ở tuổi thiếu niên, ông đã được giác ngộ tham gia phong trào học sinh, sinh viên tranh đấu, trở thành một trong những lãnh đạo của phong trào yêu nước, bị địch bắt giam nhiều lần, trong đó hai lần bị đày ra Côn Đảo.

Có năng khiếu văn chương, ông cũng sớm làm thơ, ra mắt hai tập thơ đầu tay Tình phượng 15 năm 1962 và Đêm lên cơn dài năm 1965, ký bút danh Triệu Cung Tinh. Hơn 20 năm sau, khi đất nước đã thống nhất, ông mới xuất bản các tập thơ tiếp theo, dưới bút danh Triệu Từ Truyền,như Bên dòng Măng Thít (1986), Dật dờ trong sương (1990), Mảnh vỡ hồn nhiên (1994), Va chạm hư không (2005)… và mới nhất là Hạt sứ giả tâm linh(2015).

Trước năm 1975, một số bài thơ của ông đã tác động đến tinh thần yêu nước của người Sài Gòn và miền Nam, đặc biệt là bài Bé thơ Sơn Mỹ. Theo nhà báo Lê Văn Nuôi, một trong những thủ lĩnh của phong trào học sinh tranh đấu ở Sài Gòn bấy giờ, từng là cấp dưới trực tiếp của Tư Truyền thì Bé thơ Sơn Mỹ có lẽ là bài thơ duy nhất nói về sự kiện bi thương này, với đoạn mở đầu đau xót: “Sơn Mỹ ơi, khúc ruột nào ta đó/Vừa quặn đau theo tiếng khóc em thơ/Bé chết vùi bên xác mẹ, xác bà/Trong tiếng đạn và tiếng cười man rợ”.

Bài thơ dài được viết bằng chữ nhỏ li ti trên tờ giấy quyến vấn thuốc lá, do Tư Truyền bí mật trao tận tay Lê Văn Nuôi và dặn: “Anh gửi em bài thơ Bé thơ Sơn Mỹ viết về chuyện lính Mỹ giết hại đồng bào mình ở làng Sơn Mỹ, Quảng Ngãi. Tùy em đưa đăng trên một tờ báo nào của phong trào sinh viên học sinh cũng được. Anh chưa ký bút hiệu cho bài thơ này, em đặt dùm một bút danh. Em nhớ đánh máy lại bài thơ này và đốt hủy ngay bản thảo chữ viết tay này của anh nhé, kẻo bọn mật vụ truy ra bút tích của anh”.

Lê Văn Nuôi đã đăng bài Bé thơ Sơn Mỹ với bút danh Lê Dân trong tuyển tập thơ Ta đã lớn lên bên này châu Á do Tổng đoàn Học sinh Sài Gòn xuất bản tháng 8-1970. Sang năm 1971, bài thơ này được dịch ra tiếng Anh với tựa Child of My Lai đăng trong tuyển tập thơ We Promise one another (Chúng tôi cùng ước nguyện) xuất bản tại Mỹ.

Thấm đẫm văn hóa sông nước Cửu Long

Triệu Từ Truyền là một thi sĩ bẩm sinh, sống hết mình vì thơ và biến thơ thành vũ khí, niềm cảm hứng sống hướng thiện và say mê khám phá sáng tạo.Ông là một trong những gương mặt thơ độc đáo của Sài Gòn và Nam bộ trong nửa thế kỷ qua. Độc đáo về người thơ. Độc đáo trong tìm tòi, khám phá và tạo dựng không gian thơ riêng biệt.

Ngay từ những bài thơ tranh đấu cho hòa bình, Triệu Từ Truyền đã sớm hình thành một giọng điệu, giàu chất suy tưởng, triết lý và thi ảnh. Về sau, khi hoàn thành trách nhiệm công dân, rời quan trường, dành tất cả tâm huyết cho thơ thì giọng thơ Triệu Từ Truyền mở rộng biên độ, nâng lên ở tầm mức mới, với những cảm thức sâu lắng về thiên nhiên, khoa học, nhân văn và sự sinh tồn của con người, vũ trụ. Dần dần tước bỏ vần điệu, vẫn giữ chất triết luận, nhưng thơ ông không còn phản ánh trực diện đời sống, mà đi vào chiều sâu đời sống, chiều sâu không - thời gian, tái hiện những vẻ đẹp bất ngờ của đời sống bằng trí tưởng tượng phong phú từ trải nghiệm. Điều đó thể hiện qua nhiều bài thơ của những tập thơ sau này, nhất là trong Hạt sứ giả tâm linh: “Anh cưỡi cá Hô nhớ thuở lên năm/Băng qua Cửu Long bằng xuồng tam bản/Anh hay cá mắc cạn/Bên dòng lịch sử hay dòng sông?”

Sinh ra miền sông nước nên hình ảnh con cá xuất hiện khá nhiều trong thơ Triệu Từ Truyền. Con cá gắn với đời sống và số phận con người miệt vườn. Như trong bài Có một ngày, ông viết: “Có một ngày trong mùa nước nổi/con cá khơi xa bơi quanh bông điên điển vàng/cá lớn dần giữa đồng tràn phù sa/trong bọt tình yêu manh nha từ tiền kiếp thượng nguồn”.

Không thấm đẫm văn hóa sông nước Cửu Long thì không thể dựng lên những tứ thơ như vậy. Và đây là hình ảnh Con cá bảy màu bơi trong mưa phùn vừa thực vừa ảo như được ông tái hiện từ tâm thức mê đắm và yêu thương xứ sở:“Con cá lia thia chui vào đám ruộng/trốn nắng dưới lá sen/đôi khi bên gốc bông súng/vớt vào lòng bàn tay trẻ thơ/đấu đá trong lọ thủy tinh số phận/rồi bảy màu lấp lánh của cá bay lên/hòa nhập vào cầu vòng mơ ước thơ ngây/xác cá nhạt nhòa trên lá súng”.

Ấy thế nhưng khi mùa xuân tuổi thơ mất hút lòng sông sạt lở, trôi ra biển cả, hóa thân vào mưa và rơi trở lại đám ruộng ngày xưa thì:“Con cá bảy màu bơi trong mưa phùn/cơn mưa phùn dai dẳng/con cá nhỏ bay lên cầu vồng/mùa xuân tươi rói”.

Quy luật sinh tồn thiên nhiên hay vòng quay ký ức kỳ diệu cuộc đời chỉ có thể được tái hiện bằng tình yêu mãnh liệt, khát vọng tự do, trí tưởng tượng phong phú của thi sĩ. Và nhà thơ Triệu Từ Truyện đã tái sinh được điều kỳ diệu ấy bằng ngôn ngữ riêng mình. Thơ ông như con cá bảy màu lạ lẫm bơi lấp lánh giữa cơn mưa phùn bình yên trên dòng sông quê hương mà tuổi trẻ ông đã dấn thân tranh đấu giữ gìn.

PHAN HOÀNG

Tin cùng chuyên mục