Anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, một thiên tài

Kỷ niệm 220 năm chiến thắng Đống Đa, chúng ta không thể không nhớ đến Nguyễn Huệ.

Nguyễn Huệ có anh là Nguyễn Nhạc, em là Nguyễn Lữ. Ông tổ 4 đời trước cùng một tổ với Hồ Quý Ly, người ở huyện Hưng Nguyên, đất Nghệ An. Giữa thế kỷ 17, vào Nam ở vùng Cao Nguyên, xưa thuộc phủ Quy Nhơn nay thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

Nguyễn Huệ sinh năm 1753 với tên là Hồ Thơm, có cha là Hồ Phi Phúc, mẹ là Nguyễn Thị Đông và mất ngày 16-9-1792, hưởng dương 39 tuổi, sau khi lên ngôi hoàng đế được 4 năm.

Thời đó có ông giáo Hiến, người chống đối Trương Phúc Loan, trốn vào Quy Nhơn mở trường dạy học. Phát hiện được tài năng, chí lớn của 3 anh em Hồ Thơm, ông đã hết lòng dạy cả văn lẫn võ và thường khuyến bảo: “Các con là người của đất Tây Sơn, Tây Sơn khởi nghĩa sẽ làm nên nghiệp lớn ở Bắc Hà”.

Đến lúc khởi binh, anh em Huệ lấy họ mẹ là họ Nguyễn để thuận lòng người, vì đất trong Nam là thuộc chúa Nguyễn.

Năm 18 tuổi, Nguyễn Huệ đã cùng Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ lập đồn trại ở rừng núi, chiêu tập nghĩa quân, truyền đi bài hịch, kêu gọi: “Đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Phúc Dương” (cháu đích tôn của Nguyễn Phúc Khoát bị Phúc Loan phế truất), nêu cao khẩu hiệu “Lấy của nhà giàu chia cho người nghèo”. Cờ nghĩa đến đâu, dân theo đến đó.

Mùa thu năm 1773, nghĩa quân đã chiếm được Quảng Ngãi. Ở mặt Nam, chiếm từ Nam Bình Định cho đến Bình Thuận. Năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu Thái Đức, phong Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân.

Năm 1782, thủy quân của Nguyễn Huệ đã đánh bại lực lượng thủy quân lớn của Nguyễn Ánh có tàu chiến Bồ Đào Nha giúp. Cuối năm 1782, vua Tây Sơn bình xong đất Gia Định.

Gia Định thất thủ, Nguyễn Ánh cho Cảnh là con trai mới 4 tuổi làm con tin theo giám mục Bá Đa Lộc qua Pháp cầu cứu, gởi kèm theo thư cho vua Pháp cam kết nếu được giúp thành công thì xin nhượng đảo Côn Lôn, cửa Hội An. Cùng lúc, Nguyễn Ánh còn cầu cứu vua Xiêm.

Ở Côn Lôn, có đền thờ bà Phi Yến, vợ ba của Nguyễn Ánh, người khuyên ngăn chồng không nên để phải mang tội “Cõng rắn cắn gà nhà”, đã bị Nguyễn Ánh trừng phạt đày trong hang đá ở đảo cho đến chết.

Cuối tháng 7-1784, vua Xiêm đưa 2 vạn thủy quân, 300 chiến thuyền và 3 vạn bộ binh cùng Nguyễn Ánh tràn vào chiếm vùng miền Tây Nam bộ, đến đâu là tàn phá, cướp bóc, hãm hiếp rất dã man. Nguyễn Huệ từ Quy Nhơn đem quân vào chống giữ. Ngày 18-1-1785, quân Xiêm theo dòng sông Mỹ Tho, ồ ạt tiến vào đoạn Rạch Gầm Xoài Mút. Nguyễn Huệ chỉ bố trí đánh một trận vào sáng 19-1-1785, 5 vạn quân Xiêm bị tiêu diệt, chỉ còn vài ngàn người chạy bộ trốn về nước. Nguyễn Ánh cùng đường, cũng chạy sang Xiêm.

Chiến thắng vẻ vang này đã kết thúc giai đoạn đánh đổ chúa Nguyễn, đặt toàn bộ lãnh thổ Đàng Trong dưới quyền kiểm soát của nghĩa quân Tây Sơn.

Lúc này, từ Hải Vân trở ra do tập đoàn Lê - Trịnh chiếm giữ, đang lâm vào tình thế vô cùng rối ren. Bọn chúa Trịnh suy yếu. Vua Lê chỉ là bù nhìn. Nhân dân đói khổ nổi dậy chống đối khắp nơi. Thời cơ tấn công Bắc Hà đã đến. Tháng 4-1786 Nguyễn Huệ đã tổ chức và thực hiện 2 kế hoạch: giải phóng Thuận Hóa và giải phóng Thăng Long.

Để giải phóng Thuận Hóa, Nguyễn Huệ đã tổ chức 3 mũi tiến công đi theo 3 đường, sử dụng cả bộ binh và thủy binh. Hơn 3 vạn quân cùng toàn thể tướng lĩnh cao cấp của nhà Trịnh tại đây đã bị tiêu diệt. Một vùng rộng lớn từ Hải Vân đến bờ sông Gianh được giải phóng.

Sau khi giải phóng vùng Thuận Hóa, Nguyễn Huệ đưa quân tiến thẳng ra Bắc Hà. Để giải phóng Thăng Long, về chính trị, Nguyễn Huệ đã giương cao ngọn cờ “Phò Lê diệt Trịnh” để tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân, cô lập quân Trịnh. Về quân sự, Nguyễn Huệ sử dụng quân thủy bộ, với hơn 1.000 thuyền chiến có cả đội voi chiến.

Chỉ đánh trong một đêm đến sáng 19-7-1786, quân chúa Trịnh hoàn toàn bị tan rã, quân Nguyễn Huệ rầm rộ tiến vào Phố Hiến. Và ngay lập tức ngày 21-7-1786, Nguyễn Huệ cho đại quân tiến vào Thăng Long. Nếu kể từ 11-7-1786 đánh Vị Hoàng, Phố Hiến đến lúc vào Thăng Long chỉ mất 10 ngày. Mấy ngày sau, Nguyễn Huệ cùng các tướng sĩ, các quan văn võ Bắc Hà vào chúc mừng vua Lê Hiển Tông. Ngày 1-8-1786, vua phong Nguyễn Huệ làm Uy Quốc công và gả công chúa Ngọc Hân, nhận Nguyễn Huệ làm phò mã.

Sau khi hoàn thành mọi việc, Nguyễn Huệ rút quân về Nam.

Quân Tây Sơn rút về, Bắc Hà rối loạn. Lê Chiêu Thống kế vị Lê Hiển Tông bất lực, bị thế lực họ Trịnh do Trịnh Bồng đứng đầu lấn áp, phải dựa vào Nguyễn Hữu Chỉnh để đánh bại quân Trịnh. Nguyễn Hữu Chỉnh nhân đó lộng quyền, trước theo Tây Sơn, nay chống lại Tây Sơn. Nguyễn Huệ phái Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm đem quân ra diệt Chỉnh. Nguyễn Hữu Chỉnh và Lê Chiêu Thống chạy lên phía Bắc, quân sĩ bỏ trốn hết không ai theo. Chỉnh đến Yên Thế thì bị giết. Lê Chiêu Thống trốn thoát, chạy qua Quảng Tây (Trung Quốc) cầu cứu.

Nguyễn Huệ rút về Nam, giao trách nhiệm cho Vũ Văn Nhậm sắp xếp công việc. Vũ Văn Nhậm đưa Lê Duy Cẩn lên làm giám quốc bù nhìn, rồi lộng quyền làm nhiều điều xằng bậy. Nguyễn Huệ lại phải vội vã ra Bắc, bắt giết Nhậm, cử Ngô Văn Sở lên thay, đồng thời thu nhận những hiền tài trong số quan lại, sĩ phu tiến bộ, giao chức quyền cho họ, trong đó có Ngô Thời Nhậm, Phan Huy ích...

Như vậy là sau hơn 15 năm khởi nghĩa, quân Tây Sơn đã đánh đổ 3 tập đoàn phong kiến thống trị: Nguyễn - Trịnh - Lê. Nước nhà được thống nhất từ Hà Tiên đến cả miền Bắc. Đây là một sự nghiệp hết sức huy hoàng, vĩ đại.

Nhưng, dựa vào lời cầu cứu của vua tôi Lê Chiêu Thống, triều đình phong kiến Mãn Thanh đã cho Tôn Sĩ Nghị đưa quân chủ lực vào chiếm đóng Thăng Long ngày 17-12-1788.

Được tin cấp báo, Nguyễn Huệ tính kế chống quân xâm lược. Để làm sáng tỏ chính nghĩa và danh nghĩa đối với cả nước, trách nhiệm với toàn dân ở cả 2 miền Bắc Nam, ngày 22-12-1788, Nguyễn Huệ lập đàn ở phía Nam núi Ngự Bình (Huế) tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung.

Hoàng đế Quang Trung được Ngô Thời Nhậm làm tham mưu đã cùng các tướng chuẩn bị cuộc tấn công.

Toàn quân được chia làm 5 đạo, nhiệm vụ mỗi đạo được xác định rõ ràng. Cách đánh là vận dụng linh hoạt yếu tố bí mật, bất ngờ, tiến công trên nhiều hướng, thực hiện bao vây tiêu diệt quyết liệt bằng lực lượng cơ động, kết hợp tấn công chính diện với thọc sâu vu hồi vào cạnh sườn và sau lưng địch, chia cắt để tiêu diệt từng bộ phận, đánh vào từng điểm địch yếu thế hơn mình.

Vua Quang Trung cho toàn quân ăn tết trước và tổ chức lễ “thệ sư” vào giữa đêm giao thừa thanh vắng, đọc vang lời hịch:

“Đánh cho để dài tóc

Đánh cho để đen răng

Đánh cho nó chích luân 

                bất phản

Đánh cho nó phiến giáp         

                 bất hoàn

Đánh cho sử tri, Nam quốc         

       anh hùng chi hữu chủ”

(Có nghĩa là đánh để vẫn giữ được phong tục tập quán, vẫn để được tóc dài, vẫn nhuộm được răng đen. Đánh cho nó, một chiếc xe để chạy về nước cũng không có. Đánh cho nó, một mảnh giáp cũng chẳng còn. Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng là có chủ).

Lời hịch bằng nửa Nôm, nửa Hán, mang một giá trị mới về văn hóa. Trước khi truyền hịch, Vua Quang Trung còn kể tội quân Thanh, nêu cao tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến.

Đêm 30 tháng chạp năm Mậu Thân (25-1-l789) xuất quân, cho đến trưa mùng 5 Tết Kỷ Dậu (30-1-1789), trong vòng 5 ngày đêm, 29 vạn quân giặc (cả dân phu) do Tôn Sĩ Nghị làm tổng chỉ huy, đã bị tiêu diệt và ra đầu hàng. Tướng giặc Sầm Nghi Đống thắt cổ chết tại sở chỉ huy. Tổng chỉ huy quân giặc Tôn Sĩ Nghị “hốt hoảng bỏ chạy, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp”. Thấy tướng chạy, quân chạy theo, qua cầu phao vượt sông Hồng, cầu gãy, hàng vạn quân Thanh rơi xuống nước, chết.

Trưa mùng 5 Tết, Vua Quang Trung ngồi trên lưng voi, áo bào xạm đen khói súng, đi đầu đại quân tiến vào Thăng Long, giữa cảnh mừng vui khôn xiết của nhân dân.

Từ ngày lập quốc cho đến cuối thế kỷ 18, chưa bao giờ quân dân ta kháng chiến mà tiêu diệt gọn một lực lượng rất lớn quân giặc trong một thời gian rất ngắn như trận đại phá quân Thanh của Nguyễn Huệ. Chiến thắng này đã vĩnh viễn chấm dứt nạn xâm lược của tập đoàn phong kiến phương Bắc luôn đe dọa dân tộc Việt Nam ta trong suốt mấy ngàn năm.

Trong suốt 20 năm chiến đấu, Nguyễn Huệ chưa hề chùn bước. Nguyễn Huệ rất mực yêu quý dân nghèo, biết trọng dụng nhân tài, có mưu trí tuyệt vời, có lòng gan dạ ít ai bì nổi và đã đánh là thắng. Nguyễn Huệ là một danh tướng, một nhà quân sự thiên tài, một vị hoàng đế anh minh, là một trong những nhân vật rất đặc biệt trong lịch sử Việt Nam ta vào nửa đầu thế kỷ 18.

TRẦN TRỌNG TÂN

Tin cùng chuyên mục