Truyện Kiều - Một tình yêu tiếng Việt

Kỷ niệm 250 năm Ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du (1765-2015)
Truyện Kiều - Một tình yêu tiếng Việt

Kỷ niệm 250 năm Ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du (1765-2015)

LTS: Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820), tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, Danh nhân văn hóa thế giới. Ông đã để lại một di sản thi ca đồ sộ, đặc biệt là tập thơ chữ Nôm Đoạn trường tân thanh theo thể lục bát truyền thống của dân tộc thường được biết đến dưới cái tên Truyện Kiều - kiệt tác được mệnh danh là thi phẩm tiếng Việt được đọc nhiều nhất mọi thời đại. Sáng tác của Nguyễn Du là một phần quý báu nhất và đặc sắc nhất trong di sản văn học của dân tộc Việt Nam. Truyện Kiều và Nguyễn Du đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của nhiều thế hệ người Việt, đồng thời không ngừng lan tỏa, được tìm hiểu và khám phá bên ngoài dải đất hình chữ S. Nhân kỷ niệm 250 năm ngày sinh đại thi hào Nguyễn Du, Báo Sài Gòn Giải Phóng xin giới thiệu đến bạn đọc những bài viết, bài nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp thi ca cũng như những đóng góp của ông với sự phát triển, hội nhập của văn hóa Việt Nam.   

Về kiệt tác Truyện Kiều, hiện nay, vẫn chưa có bản in nào đúng hoặc gần đúng nhất với nguyên tác của Nguyễn Du. Tương truyền, sau khi viết xong Truyện Kiều, Nguyễn Du đặt tựa là Đoạn trường tân thanh có đưa cho Tiến sĩ Phạm Quý Thích xem. Phạm Quý Thích có nhuận sắc, khen ngợi hết lời, làm thơ đề từ, đổi tên thành Kim Vân Kiều tân truyện và cho khắc ván in ở phố Hàng Gai (Hà Nội). Sau đó, các nhà Liễu Vân đường, Thịnh Mỹ đường, Quan Văn đường, Phúc Vân đường... cũng dựa vào bản Nôm đầu tiên mà in lại. Các bản khắc in này được gọi chung là bản “phường”.

Với một kiệt tác như thế, nhà vua cũng thích đọc là lẽ thường tình. Vua Tự Đức đã viết bài “tổng từ” và sửa chữa lại đôi chỗ trong văn bản Truyện Kiều và cho khắc in ở kinh đô Huế, gọi là bản “kinh”. Bản “kinh” có 3.258 câu; bản “phường” có 3.254 câu. Thế thì, đâu là bản đúng với nguyên tác Truyện Kiều? Đó chưa kể đến các bản chép tay lưu hành trong dân gian. Ngoài ra, tựa sách mỗi nơi khắc in lại ghi cũng khác nhau: Kim Vân Kiều tân tập, Kim Vân Kiều quảng tập, Thúy Kiều truyện tường chú, Kim Vân Kiều truyện, Kim Túy tình từ, Truyện Thúy Kiều... Mãi đến sau năm 1954, hầu hết các bản in đều thống nhất lấy tên là Truyện Kiều.

Thật lạ lùng, trong văn học Việt Nam tự cổ chí kim, chỉ có một kiệt tác, dù khen, dù chê, lập tức sẽ có dư luận phản hồi ngay lập tức. Đó chính là Truyện Kiều.

Tháng 9-1924, tạp chí Nam Phong cùng Hội Khai trí Tiến Đức phối hợp tổ chức kỷ niệm Nguyễn Du rất long trọng, Phạm Quỳnh đọc diễn văn  khai mạc. Bài này in trên tạp chí Nam Phong số 86, trong đó có câu trứ danh: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”. Câu này hiện được khắc tại mộ Phạm Quỳnh. Ngay sau đó, trên tạp chí Hữu Thanh số 21, chí sĩ Ngô Đức Kế có bài phản biện Luận về chánh học và tà thuyết cực kỳ gay gắt. Thế là “cuộc chiến” về Truyện Kiều đã tạo nên dư luận của một thời, lôi cuốn sự tham dự của nhiều học giả thời đó.

Gần đây nhất, tháng 9-2015, Hội Kiều học Việt Nam công bố văn bản Truyện Kiều kỷ niệm 250 năm Ngày sinh đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Lập tức một “làn sóng” phản ứng dữ dội cho rằng, trong các câu chữ, chú thích có nhiều bất cập, khó có thể chấp nhận được. Vì lẽ đó, NXB Trẻ, đơn vị in ấn, phát hành đã có quyết định táo bạo, cương quyết: tiêu hủy toàn bộ số sách đã in.

Động thái tích cực này cần ủng hộ bởi một ấn phẩm ra đời trong dịp UNESCO công nhận Nguyễn Du là Danh nhân văn hóa của nhân loại thì khó có thể chấp nhận sự sai sót. Mà việc làm này cũng hợp lý thôi. Thời đi học, nói thật, tôi ngưỡng mộ văn hóa Pháp vì có lần thầy giáo kể rằng, khi thực hiện bộ Tự điển Bách khoa Larousse, ông Pierre Larousse (1817-1875) cực kỳ cẩn trọng, nếu sách đã in ra mà sai sót, dù một từ cũng hủy toàn bộ, in lại. Chính tinh thần cầu toàn này, Larousse đã trở thành sách tra cứu gối đầu giường của người hiếu học từ nhiều thế hệ. Việc làm của NXB Trẻ cũng cần nhìn theo ý nghĩa cầu toàn này nhằm tiếp tục cùng Hội Kiều học Việt Nam tập trung, chỉnh sửa, nâng cao, hoàn chỉnh hơn nữa cho bản in sau.

Cho đến nay, văn bản Truyện Kiều của Hội Kiều học Việt Nam là văn bản mới nhất. Nói như thế, vì từ nhiều thập niên nay, các nhà nghiên cứu đau đáu với linh hồn tiếng Việt, sự trong sáng của tiếng Việt đã không ngừng nỗ lực đi tìm nguyên tác của Truyện Kiều hoặc gần với nguyên tác nhất. Công việc nặng nhọc này, đã có nhiều công trình ra đời nhưng rồi, vẫn chưa có một văn bản nào được công chúng lẫn giới nghiên cứu “tâm phục khẩu phục”.

Có lẽ cần ghi nhận công trình đồ sộ của nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn: Tư liệu Truyện Kiều từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Mậu Oánh. Ta có thể hiểu, là từ bản in năm 1872 đến năm 1906. Với 9 bản Truyện Kiều ra đời trong khoảng thời gian đó, GS Nguyễn Tài Cẩn làm công việc đối chiếu. Sau khi khảo sát 205.002 chữ, ông đã phát hiện ra có đến 1.962 chữ khác nhau trong 9 văn bản đã khảo sát. Thế thì, chọn lấy từ nào trong sự khác biệt đó là gần với nguyên tác nhất? Thách thức này tưởng chừng như không khác gì lấy sức người vác đá lấp bể. Thế nhưng vì tình yêu tiếng Việt, nhiều người đã không bỏ cuộc. Đáng kính trọng thay.

Và bây giờ, công chúng mê Truyện Kiều lại có văn bản của Hội Kiều học Việt Nam. GS Trần Đình Sử, Trưởng ban chỉnh lý văn bản Truyện Kiều của hội, cho biết đã khảo sát 12 văn bản Nôm, Quốc ngữ cổ để “phục nguyên hơn 400 chữ so với các bản Kiều thông dụng”, chính xác là 412 chữ. Phải nói cụ thể, rành mạch từng chi tiết đến thế, vì lâu nay ai cũng biết rằng, một chữ trong Truyện Kiều, sự khác nhau từ mặt chữ, cách đọc đến cách cảm thụ đã là những cuộc tranh luận bất tận.

Vậy thì, bản Kiều lần này của Hội Kiều học Việt Nam cũng không đi ra ngoài thông lệ đó. Rồi sau này, chắc chắn sẽ còn có những công trình khác, tiếp tục đi tìm nguyên bản Kiều của Nguyễn Du. Việc làm này rất đáng hoan nghênh. Tuy nhiên cũng xin mạo muội nghĩ rằng, có lẽ chúng ta phải thừa nhận một cách khoa học và hợp lý bên cạnh văn bản Kiều gần với nguyên tác nhất, vẫn tồn tại song song một văn bản Kiều khác theo trí nhớ của nhiều thế hệ đã đọc, đã cảm thụ. Có thể rằng, Nguyễn Du đã viết thế này, nhưng họ “lái” qua thế kia miễn thấy hay, thấy hợp cảnh hợp tình. Tôi muốn nói là sự “sáng tạo” văn bản Kiều lần thứ hai từ cảm nhận của người đọc. Mà thật ra, hai văn bản đó đã song hành lâu nay không là giá trị độc lập, riêng lẻ mà bổ sung cho nhau. Vì lẽ đó, với mục tiêu của Hội Kiều học Việt Nam: “Đây là văn bản Truyện Kiều vừa hướng tới tầm nguyên, vừa tôn trọng kinh nghiệm tiếp nhận tác phẩm trong gần hai thế kỷ”, chắc chắn sẽ còn mở ra những cuộc tranh luận nữa. Sự khác nhau trong tranh luận là lẽ thường tình, một điều cần phải có vì sự lành mạnh của học thuật, miễn là Hội Kiều học Việt Nam đã thực hiện hết khả năng của mình - “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

LÊ MINH QUỐC

Tin cùng chuyên mục