Sạt lở đê biển và những hệ lụy
Sạt lở đê biển ở các tỉnh ĐBSCL đã trở thành nỗi ám ảnh với nhiều người dân và chính quyền địa phương sở tại. Thời gian qua, ngành chức năng đã triển khai hàng loạt giải pháp phòng chống như kè kiên cố, kè mềm kết hợp trồng rừng phòng hộ, gia cố đê… Tuy nhiên, kết quả chưa như mong muốn, bởi tình trạng sạt lở tiếp tục diễn ra. Phòng chống sạt lở đê biển ở ĐBSCL đang trở nên vô cùng cấp thiết.
Càng lúc càng nguy hiểm
Trên 30 năm công tác trong ngành thủy lợi, ông Nguyễn Văn Trưởng, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Trà Vinh, từng nhiều phen vất vả với tình trạng sạt lở đê biển trên địa bàn. Mỗi khi vào mùa mưa bão hay đợt triều cường, gió mùa đông bắc… thường kéo theo những đợt sóng biển dữ dội đánh thẳng vào các tuyến đê biển gây sạt lở bất kể ngày đêm. Qua theo dõi nhiều năm, ông Nguyễn Văn Trưởng cho rằng: “Ngày trước sạt lở đê biển có xảy ra nhưng mức độ thấp. Kể từ sau cơn bão lịch sử Linda vào năm 1997, tình trạng sạt lở đê biển ở Trà Vinh càng dữ dội và nguy hiểm hơn; chính vì thế mà ngành chức năng luôn chủ động ứng phó”. Cũng từ sau cơn bão lịch sử năm đó, nhiều cánh rừng phòng hộ bị mất dần, tạo điều kiện cho biển dễ dàng xâm thực.
Trồng lại rừng phòng hộ để chống sạt lở ở Cà Mau
Theo các nhà chuyên môn, sạt lở đê biển trầm trọng trong thời gian qua có nhiều nguyên nhân gây ra như thời tiết bất thường, tác động của biến đổi khí hậu, triều cường, nước biển dâng cao, sóng to đánh vào bờ… Thêm vấn đề cần lưu ý là lượng phù sa đổ về ngày càng giảm mạnh do các đập thủy điện từ thượng nguồn sông Mê Công bị chặn dòng; rồi nạn khai thác cát vô tội vạ ở các tỉnh ĐBSCL, cộng với tình trạng khai thác nước ngầm để nuôi tôm ở các vùng ven biển gây ra hiện tượng đất sụt lún, lòng đất yếu nên dễ xói lở. Do sạt lở càng lúc càng nhiều nên các ngành chức năng tỉnh Trà Vinh xin Trung ương hỗ trợ kinh phí xây dựng kè kiên cố với khoảng 10,3km ở những khu vực trọng yếu thuộc thị xã Duyên Hải và huyện Duyên Hải. Dự án kè kiên cố được triển khai nhiều năm, nhưng đến nay mới hoàn thành được khoảng 5,6km, số còn lại chưa thực hiện do thiếu kinh phí, bởi trung bình kè 1km tốn khoảng 100 tỷ đồng. Tại Tiền Giang, do rừng phòng hộ bị mất nghiêm trọng nên sạt lở đê biển càng gia tăng. Cuối năm 2015, UBND tỉnh Tiền Giang có công văn kiến nghị Trung ương hỗ trợ hơn 400 tỷ đồng đầu tư kè mái đê biển Gò Công ở những đoạn xung yếu. Trước đó, tỉnh triển khai dự án kè mái chống sạt lở hơn 6,3km, đến nay thi công được 5,3km thì sạt lở tiếp tục lấn sâu, nên tiếp tục nâng chiều dài kè lên 10km…
Ở vùng biển Gành Hào (Bạc Liêu), nhiều cư dân sống cố cựu cho rằng, dù kè được xây dựng kiên cố đến đâu nhưng không có lá chắn bảo vệ thì khó “đương đầu” lâu dài với sóng biển. Điều này “ứng” với kè Gành Hào hiện tại. Cụ thể: công trình kè Gành Hào (đoạn kè G1-185 tiếp giáp đoạn kè G2-158, điểm bị sạt lở) khởi công xây dựng từ năm 2003 và hoàn thành đưa vào sử dụng năm 2006. Vào thời điểm này, kè Gành Hào được xem là kiên cố bậc nhất tại vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, chỉ “đương đầu” với sóng biển được chừng 10 năm thì bị sạt lở, nhất là 2 năm trở lại đây. Theo đánh giá của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, kè Gành Hào sau khi đưa vào sử dụng, qua quan trắc môi trường cho thấy bị sụt lún khá lớn. Khối đất đá, bệ đỡ, hàng cọc, độ giữa đất cũng có ảnh hưởng lớn. Đặc biệt, bãi kè đã có những tác động nghiêm trọng. Theo Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, dòng chảy có sự thay đổi tại bờ sông Gành Hào, bởi nơi đây là cuối biển - đầu sông, nên nước từ cửa sông chảy ra biển gặp phải gió mùa đông bắc thổi, tạo thành sóng lớn làm xoáy lở bờ sông thêm trầm trọng.
Là cư dân sống trên 35 năm ở cửa biển Gành Hào, ông Trịnh Minh Trung (thị trấn Gành Hào, huyện Đông Hải), chia sẻ: “Lúc tôi về đây sinh sống, bờ biển tính từ vị trí kè hiện tại ra tới biển dài hơn 4 cây số. Tuy nhiên, do mất rừng nên sạt lở ngày càng nhanh. Đến khi làm kè thì sạt lở không còn diễn ra, nhưng công trình kè chịu được một thời gian thì nay bị lung lay, có nguy cơ sạt lở xuống biển”.
Trồng rừng chống lở
Nhiều người dân ở Gành Hào cho biết, phía đối diện cửa biển Gành Hào là Tân Thuận (Cà Mau), trước đây cũng sạt lở như bên này. Nhưng khi làm kè ngầm tạo bãi thì việc sạt lở không còn diễn ra. Không những thế mà phù sa còn bồi lắng, cây rừng mọc trở lại. Kinh nghiệm nhiều đời nay cho thấy nếu rừng được bảo vệ, thì việc sạt lở sẽ hạn chế vì nó che chắn, cản sóng rất tốt. Đồng tình với quan điểm này, ông Nguyễn Thiện Pháp, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Tiền Giang nhìn nhận: “Về cơ bản khi rừng phòng hộ bị mất thì đê biển sẽ lung lay bởi không còn cây chắn sóng. Do đó, việc phòng chống sạt lở đê biển hiệu quả nhất vẫn là khôi phục lại rừng ven biển. Và Tiền Giang cũng đang thực hiện dự án kè giảm sóng, gây bồi, tạo bãi trồng rừng ngập mặn ở huyện Gò Công Đông, với dự án dài 1.420m”. Ban chỉ huy Phòng chống lụt bão - Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Trà Vinh lưu ý thêm, nếu làm kè kiên cố, kinh phí rất tốn kém, trong khi tuyến đê biển bị sạt lở rất dài nên không thể nào làm nổi; chủ yếu chỉ kè kiên cố những nơi đông dân cư, trọng yếu… Về lâu dài, để ứng phó với sạt lở đê biển cần áp dụng kè mềm, gây bồi, tạo bãi trồng rừng. Khi những vạt rừng ngập mặn hồi sinh mới có thể góp phần chắn sóng, chống sạt lở hiệu quả. Cách làm này vừa ổn định môi trường, vừa tạo sinh kế cho người dân ven biển mưu sinh dưới tán rừng…
Có thể nói, ĐBSCL là một trong những vùng bị ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu. Thực tế, biến đổi khí hậu đã xóa đi rất nhiều công trình đê kè, nhà cửa của người dân xứ đồng bằng. Để khắc phục tình trạng này, các tỉnh ven biển ĐBSCL áp dụng nhiều giải pháp khác nhau để thích ứng với biến đổi khí hậu. Thời gian qua, các tỉnh ĐBSCL triển khai một số dạng kè thí điểm nhưng hiệu quả đem lại chưa cao. Theo một số chuyên gia, tùy vào khu vực bờ biển, địa chất mà xây các dạng kè cho phù hợp. Hiện tại, giải pháp xây “kè mềm”, trồng lại rừng ven biển, khôi phục đai rừng phòng hộ… được các nhà khoa học đồng thuận rất cao. Tuy nhiên, các đai rừng ven biển càng ngày càng mỏng và mất dần. Trong khi đó, việc hồi phục đai rừng chưa như mong đợi. Thêm nữa, một số khu vực đã bị sạt lở nghiêm trọng, bãi bồi không còn, đai rừng bị mất hết… nên để trồng lại rừng cũng lắm gian nan.
Khó khăn là vậy, nhưng thời gian qua cũng có một số địa phương kiên trì thực hiện trồng rừng phòng hộ nhằm che chắn an toàn nhà cửa, nơi sản xuất của người dân. Cụ thể, tại cù lao Long Hòa (xã Long Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh). Cù lao này được bao bọc bởi sông Cổ Chiên, còn mặt hậu giáp với biển Đông. Trước đây, tới mùa gió chướng thổi vào đất liền thì nơi đây bị sạt lở nghiêm trọng, hàng trăm hécta đất của người dân bị cuốn trôi ra biển, nhiều người phải bỏ đi nơi khác. Từ những năm 2000, người dân xứ cù lao Long Hòa bắt đầu trồng rừng trở lại (chủ yếu là cây bần). Sau 10 năm, diện tích trồng và tự nhiên thống kê được trên 146 ha. Hiện nay, đã tăng lên hơn 260ha. Lãnh đạo UBND xã Long Hòa, cho biết việc trồng rừng đem lại nhiều cái lợi cho cuộc sống của chính người dân và chống được sạt lở. Các loài thủy sản xuất hiện trở lại và sinh sôi dưới tán rừng, tạo được môi trường sống ổn định… Cùng với xã Long Hòa thì suốt 15km bờ biển ở các xã Mỹ Long Nam, Mỹ Long Bắc và thị trấn Mỹ Long (huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh) cũng mọc lên những vạt rừng phòng hộ bảo vệ cư dân ven biển. Bên cạnh đó, các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như tôm, cua… sinh sống ngày một nhiều, góp phần ổn định đời sống người dân, cũng như môi trường biển.
Ông Lai Thanh Ẩn, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Bạc Liêu, cho biết: “Để bảo vệ bờ biển, hệ thống kè ven biển trên địa bàn trước biến đổi khí hậu, tỉnh đã đặt hàng với các viện, trường để đưa ra định hướng xây dựng hệ thống đê kè phù hợp với đặc điểm vùng biển Bạc Liêu. Thực tế thời gian qua cho thấy chúng ta không thể chống thiên nhiên trực tiếp được, mà cần có giải pháp phá sóng từ ra. Theo đó, giải pháp gây bồi tạo bãi, khôi phục lại rừng phòng hộ ven biển… là bền vững nhất”.
HUỲNH LỢI - NGỌC CHÁNH