Chui qua đáy sông Sài Gòn

Chui qua đáy sông Sài Gòn

Ngày còn bé, được đi chơi ra chỗ vườn Một Hình, tôi chỉ biết đứng nhìn rặng dừa nước tít bên kia sông, ngóng gió mát đưa con đò nhỏ dập dờn sóng nước, chứ không ngờ có ngày mình chui qua đáy sông sang bờ Thủ Thiêm. Vườn Một Hình là tên dân Sài Gòn lúc đó gọi Công viên Mê Linh bây giờ. Lớn lên một chút, đi dọc bờ từ cột cờ Thủ Ngữ tới Ba Son, tôi thấy cầu tàu Nguyễn Văn Kiệu và bến đò, bến phà Thủ Thiêm tấp nập những người, lại có nhiều ghe nhỏ đậu ken dày, trong đó có một ghe của bà chị con ông bác ruột tôi, ghe không dùng đi lại mà ghe là nhà.

Sau ngày thống nhất, những buổi tối ra hóng mát ở bến Bạch Đằng, nhìn những cô gái ngồi nướng bắp trên bếp than hồng mùi thơm thoang thoảng, tôi chợt nhớ câu ca xưa xa vời heo hút, chắc của đám thợ thuyền bên kia sông sang làm ca đêm trở về, không đi phà lại đi đò: Bắp non mà nướng lửa lò/ Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm. Ai chẳng biết “qua sông thì phải lụy đò”, song ở nơi người xe đông đúc như Sài Gòn, cái sự “lụy” này nó luôn thách thức: Chừng nào Chợ Lớn hết vôi/ Thủ Thiêm hết gạo thì thôi đưa đò.

Vậy mà Chợ Lớn chưa hết vôi, Thủ Thiêm chưa hết gạo nhưng con đò - và cả con phà chở hàng ngàn người xe nữa - đã vắng khách sang sông. Hàng trăm năm rồi không ai “ve” được nhưng mới vài năm thôi, con đò đã phải gác chèo, “bỏ thuyền bỏ bến bỏ dòng sông/cô lái đò kia đi lấy chồng” (Nguyễn Bính)... Vì những chuyên gia Nhật Bản, kỹ sư và thợ Việt Nam... đã đổ mồ hôi dìm những đốt hầm to như những tòa nhà cao rộng, làm nên hầm Thủ Thiêm cho ta chui qua đáy sông hôm nay!

* * *

Tôi ngồi sau xe máy của một anh bạn chạy dọc đại lộ Đông Tây tiến vào trung tâm TP. Sau 30-4-1975, tôi trở lại Sài Gòn làm báo nên đã nhiều lần đi qua các bờ kênh Tàu Hủ, rạch Bến Nghé. So với những dãy nhà lụp xụp, những chung cư xuống cấp bong vữa, lòi xương thép, con đường hẹp và ổ gà lở lói của 40 năm trước thì bây giờ đường rộng thênh thang, sau dải phân cách, giống cái hàng rào sắt trước nhà mới là hàng cây xanh vừa độ tuổi thiếu niên và kênh rạch nước tràn đầy, gió sông phả vào mặt mát rượi.

Ký ức tuổi thơ lại hiện về: Hơn 70 năm trước, nhà cha mẹ tôi ở Cầu Kho (đường Trần Đình Xu bây giờ) gần sông, con mương trước nhà tôi còn đầy ô rô, u du, cỏ nước mặn, tôi thường hái chùm trái ô rô giả làm nải chuối chơi bán hàng với cô bạn nhà bên... Vậy mà...

Cửa hầm vượt sông Sài Gòn (phía quận 2 TPHCM). Ảnh: CAO THĂNG

Chui qua mấy gầm cầu bắc ngang rạch Bến Nghé, cầu vượt giao lộ, tôi đã thấy cửa hầm Thủ Thiêm nhô mái hiên đón khách. Cảm giác đầu tiên của tôi khi vừa tới cửa hầm là mình chui tọt vào bụng một con trai khổng lồ đang há miệng. Tôi mở tròn mắt khám phá những viên ngọc trai bên trong. Xe hơi (hai làn) và xe máy bật đèn, nối nhau chạy đúng tốc độ quy định. Ba cái quạt lớn treo trên cao giống ba động cơ máy bay thổi vù vù cùng lúc với tiếng rào rào của động cơ xe hơi, xe máy vang dội vách hầm; người ta khuyên khách qua hầm nhét nút bịt tai cũng có lý lắm vậy. Từ ánh sáng trắng ngoài trời, tôi gặp ngay ánh sáng hồng quý phái, luôn được tự động điều chỉnh cân bằng với ánh sáng ngoài hầm, tránh cho người mới vào khỏi lóa mắt.

Gần 15 năm trước, dự án đại lộ Đông Tây mà hạng mục quan trọng nhất là hầm Thủ Thiêm đã được lựa chọn. Nhưng việc xây dựng bị đình trệ đến năm 2004, do vướng giải tỏa, đền bù và tái định cư. Bể đúc hầm đặt tại xã Phước Khánh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, giáp sông Nhà Bè. Cùng lúc với đúc hầm là đào dưới đáy sông Sài Gòn, sâu đến 13 - 14m và xây sẵn móng chuẩn bị cho việc đặt các đốt hầm...

Ánh sáng trong hầm dần chuyển sang màu trắng xám. Nhưng màu hồng của các cọc làm dải phân cách cùng ánh đèn xe hắt vàng, hắt đỏ lên vách hầm bóng lộn, vẫn loe lóe những đốm ruby. Đường dốc xuống thoai thoải. Tôi đang ở dưới mặt nước 24m, trên đầu là cả dòng sông Sài Gòn. Đã đến hầm dìm chưa nhỉ? Nhớ những ngày dân Sài Gòn ngồi uống nước ở Công viên Bạch Đằng hay leo lên các cao ốc ven sông theo dõi tàu lai dắt các đốt hầm nặng 27.000 tấn, rộng như “một sân bóng đá”, từ Nhơn Trạch theo sông Nhà Bè rồi sông Sài Gòn về vị trí đánh chìm...

7 giờ 40 phút ngày 7-3-2010, tiếng súng lệnh xuất phát ở Nhơn Trạch vang lên. Đây cũng là phát súng lệnh cuộc đua marathon cho kỹ sư và công nhân Việt Nam lần đầu tiên làm hầm dìm trên đường đua đẳng cấp quốc tế. Ca nô sơn trắng, chạy trước mở đường. Các lực lượng trên sông trên bộ cùng ráo riết triển khai, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho đoàn lai dắt. Công nhân trên “đốt hầm sân banh” lừng lững giữa sông, quần áo và nón bảo hộ màu đỏ, không ngừng tuần tra để kịp thời phát hiện sự cố trong khi đốt hầm di chuyển. Trực thăng sơn màu vàng, sọc xanh, cánh quạt quay lạch phạch bay bên trên, vừa quan sát toàn cảnh vừa chở lực lượng báo chí ghi lại sự kiện đặc biệt “trăm năm một hội” này của Sài Gòn. Bốn tàu lai dắt phía trước và sau, cột tàu sơn đỏ, cùng hai tháp định vị màu xanh ở mặt hầm nổi lập lờ trên mặt nước, từ từ di chuyển trên sông.

Từ ngã rẽ “Nhà Bè nước chảy chia hai, ai về Gia Định Đồng Nai thì về”, đoàn lai dắt tiến vào sông Lòng Tàu để về Sài Gòn - Gia Định. 12 giờ 30 phút, hai tháp chỉ huy của hầm dìm đã xuất hiện ở bến cảng Nhà Rồng, sau quãng đường dài 22km. Hàng ngàn người dân chờ đón đốt hầm dìm đầu tiên đứng chật hai bên bờ Thủ Thiêm và phía vàm Bến Nghé như những thân nhân hồi hộp chờ người nhà mình ngoài phòng thi.

Mặt sông hẹp nên việc lai dắt đốt hầm dài suýt soát 93m xoay ngang 90 độ không phải dễ dàng. Đốt hầm cẩn trọng nhích từng chút một. Các kỹ sư, công nhân người Việt Nam, tất bật mà tỉ mỉ kiểm tra góc độ đấu nối của đốt hầm như những thí sinh tự tin và bình tĩnh làm bài thi. Sau nhiều nỗ lực, đốt hầm đã vào đúng vị trí lúc 2 giờ chiều.

8 giờ sáng hôm sau, đốt hầm số 1 bắt đầu được bơm nước vào và lặng lẽ chìm dần xuống sông từ phía bờ Thủ Thiêm. Đốt hầm chìm xuống dăm mét thì dừng lại chờ công nhân lặn chỉnh sửa. Càng xuống sâu, quy trình xử lý càng chặt chẽ hơn, có khi hầm chỉ hạ khoảng mươi phân là phải ngừng lại chỉnh sửa. Công việc cứ tuần tự diễn ra như thế đến khi đốt hầm chìm đúng vị trí. Cuối cùng, nước trong đốt hầm kín được rút hết ra. Bài thi đầu tiên đã vượt qua với kết quả tốt. Đốt hầm số 2 và 3 được lai dắt về vị trí vào các ngày 4-4, 5-5-2010 và kết nối với nhau bằng những ron cao su đặc biệt, hầm có tuổi thọ trăm năm...

Còn đốt thứ tư, đốt cuối cùng được lai dắt về vàm Bến Nghé vào ngày 4-6-2010 và bắt đầu dìm xuống lòng sông Sài Gòn đúng 7 giờ 30 sáng 5-6 theo phương thẳng đứng, khác hoàn toàn so với ba đốt hầm đã được dìm trước đó (dìm xiên), vì bây giờ chiều rộng lòng sông chỉ còn thừa đúng 1,25m để dìm đốt 4. Ngay sau khi lắp xong, đốt hầm này được nối thông với đốt số 3 trong tối đó và bơm cát để cố định đáy hầm... Bài thi cuối cùng đã được đặt dấu chấm hết và đây cũng là những ký ức rất đáng ghi nhớ của người Sài Gòn trong 40 năm qua...

Đường dốc bắt đầu lên. Những ngọn đèn trong hầm tỏa ánh vàng ấm áp. Cách quãng chừng 50m, ánh đèn xanh yên bình báo cửa thoát nạn. Tôi nhớ những ngày sửa soạn thông xe, nhiều đoàn đại biểu đã được mời đến tham quan, các bạn trẻ hớn hở phất cờ vẫy chào và đoàn lân sư rồng tưng bừng nhảy múa.

Ban quản lý đường hầm mở cửa thoát hiểm giới thiệu: Hầm Thủ Thiêm có hai lối thoát nạn nằm dọc hai bên hông. Đường thoát nạn có đèn chỉ dẫn, loa phát thanh, hệ thống quạt hút gió, thoát khói và chống tụ khói... Sau cửa thoát hiểm, các con số xanh báo quãng cách để người chạy chọn hướng gần nhất. Tôi nhớ cái cửa vừa mở ra đã thấy dấu hiệu hình người chạy và hai mũi tên chỉ hai hướng ngược nhau 519m và 513m, nghĩ bụng đây chính là “khúc giữa” của đường hầm...

Xe chếch mũi lên dốc. Trước mắt tôi, vầng sáng cửa bên kia bờ đã mở ra, trắng lóa... Trên nền trời xa xa ấy, có gương mặt của những người đã làm nên chiếc hầm chui qua đáy sông Sài Gòn, những nhà quản lý, những kỹ sư và công nhân Việt Nam lành nghề và đã trưởng thành qua “kỳ thi tốt nghiệp” với cái “bằng cấp” tầm quốc tế nằm yên dưới đáy sông. Đó là vốn quý của một đất nước đang xây dựng...

Vầng sáng vỡ òa, tiếng ồn chợt dứt: Tôi đã sang đến đất Thủ Thiêm...

* * *

Chúng tôi chạy xe trên đoạn cuối Đại lộ Đông Tây bên quận 2. Đường rộng mênh mông, có đoạn tới 140m, nhà dân thưa thớt. Lợi ích to lớn về giao thông, kinh tế, dân sinh... của đại lộ này ra sao, báo chí đã nói nhiều, chắc không cần phải dài dòng thêm nữa. Điều đọng lại vẫn là ký ức. Có ai đó đã ví: hầm Thủ Thiêm cong cong như cánh võng, cánh võng mà ai ru mình trong đó cũng nặng những ước mơ...

Từ đầu thế kỷ trước, Thủ Thiêm vẫn còn là một vùng hoang vắng, nơi đất sình lầy ngập nước đầy năn lác, cỏ bàng (giống cỏ năn nhưng to, cao, dùng đươn đệm, may nóp)..., một vùng “bưng biền” thật sự, vùng đất của giới giang hồ hảo hớn và vùng đất của dân cư lầm than. Từ “hòn ngọc Viễn Đông” bên này bờ sông Ngó qua bên chợ Thủ Thiêm / Thấy em đươn đệm giắt ghim trên đầu mà thương biết bao nhiêu...

Trước ngày thống nhất, tuy có thêm xưởng tàu Caric và một số cơ sở công nghiệp nhưng Thủ Thiêm cơ bản vẫn là vùng nghèo khó, vùng đất giang hồ tứ chiến. Sau giải phóng, tôi nhớ có lần cô giáo Tống Thị Kim Lộc, người khởi xướng phong trào “lớp học tình thương” gây xúc động một thời đã vượt sông về đây “chiêu sinh” một đứa trẻ mồ côi chuyên cướp giựt ở chợ Vườn Chuối; cô tìm ra nhà của một bà “anh chị” chuyên chăn dắt trẻ trộm cắp, hứa hẹn giành lại tương lai cho em, nhưng cái việc “vá trời” đó dần mai một và chỉ còn trong ký ức...

Cho tới hôm nay, vùng đất này hoàn toàn đổi khác với cái hầm, chiếc cầu Thủ Thiêm và nhiều cầu vượt sông sắp tới. Thủ Thiêm sẽ biến thành một khu đô thị hiện đại, một trung tâm tài chính, thương mại quốc tế và một công viên lộng lẫy có bến du thuyền quốc tế trên sông, cùng các kiến trúc biểu cảm, đặc trưng của bản sắc văn hóa “sông nước Nam bộ”. Thủ Thiêm sẽ được ghi tên trên bản đồ du lịch thế giới bởi khu công viên rừng ngập nước độc đáo ở ngay giữa lòng đô thị.

Tôi đã vượt Đông Phố đại kiều qua sông Hoàng Phố thăm khu dân cư Đông Thượng Hải, tôi đã đến ngắm khu “nhà chọc trời” La Défense bên kia sông Seine, Paris... và nay mơ về sự đổi thay của vùng đất Thủ Thiêm, khi lướt gió chui trở lại hầm dưới đáy sông Sài Gòn với bao nhiêu là ước mong, trăn trở...

TRẦN THANH GIAO

Tin cùng chuyên mục