Đổi thay ở Miệt Thứ

Miệt Thứ thuộc hai huyện An Biên và An Minh có tổng diện tích rộng hơn 99.000 ha, với hơn 70.000 hộ dân. Từ một vùng đất úng phèn, nhiễm mặn, cộng đồng cư dân nơi đây đã khai hoang, phục hóa, cải tạo đồng đất phục vụ trồng lúa 1 vụ, rồi 2 vụ...
Vùng Miệt Thứ thuộc hai huyện An Biên và An Minh của tỉnh Kiên Giang, nơi có nhiều xã nằm trong dự án hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo giai đoạn 2016 - 2020, gồm các xã ven biển Tây: Nam Thái, Nam Thái A, Nam Yên, Tây Yên (huyện An Biên); Thuận Hòa, Đông Hưng A, Vân Khánh, Vân Khánh Đông, Vân Khánh Tây và Tân Thạnh (huyện An Minh). Hơn 28.000 hộ, trên 127.000 người dân tại đây được hưởng lợi từ chương trình này. 
Chuyển động bãi ngang 
Đến cuối năm 2017, các xã bãi ngang ven biển thuộc hai huyện An Biên và An Minh đã được đầu tư gần 30 tỷ đồng, xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu như cầu, đường giao thông nông thôn, thủy lợi… Bên cạnh đó, các chính sách ưu đãi về y tế, giáo dục - đào tạo, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật… cũng được các địa phương triển khai thực hiện kịp thời.
Bà Trần Kim Tuyến, Trưởng phòng LĐTB-XH huyện An Minh, cho biết: “Các công trình xây dựng, sửa chữa, nâng cấp đường, cầu giao thông nông thôn, trường học… phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa bàn đã đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần tạo bộ mặt nông thôn khang trang cho các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển. Qua đó, không những giúp các em học sinh có điều kiện học tập, vui chơi giải trí tốt hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đi lại, sản xuất và lưu thông hàng hóa dễ dàng… mà còn góp phần cải thiện đời sống, rút ngắn khoảng cách chênh lệch mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, hướng tới các tiêu chí và xây dựng nông thôn mới”.
Đổi thay ở Miệt Thứ ảnh 1 Học sinh Miệt Thứ đến trường
Trong quá trình triển khai thực hiện chương trình, các địa phương vùng bãi ngang ven biển ở huyện An Biên và An Minh đã chủ động cân đối, phân bổ, lồng ghép nhiều chương trình, dự án, nguồn vốn để tập trung đầu tư các công trình thiết yếu, nâng cao đời sống người dân; vừa đảm bảo mục tiêu tạo sinh kế bền vững, vừa hướng tới các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, an sinh xã hội.
Tiêu biểu như công trình Trường Phổ thông Dân tộc nội trú THCS An Biên được xây dựng trên diện tích rộng 22.000m2, đưa vào sử dụng vào năm 2016 với các dãy nhà học, ký túc xá, nhà đa năng, khu hiệu bộ, nhà công vụ… khang trang, hiện đại; tổng kinh phí đầu tư hơn 80 tỷ đồng.
Tuy đặt tại ấp Bảy Chợ (xã Đông Thái, huyện An Biên), nhưng mái trường nội trú này là nơi chắp cánh ước mơ của các em học sinh dân tộc Khmer đến từ các huyện phụ cận trong vùng, như An Minh, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng… 
Mới đây nhất, công trình hệ thống cấp nước liên xã thuộc huyện An Biên cũng được đưa vào vận hành vào đầu năm 2018 tại xã Nam Yên, với tổng kinh phí đầu tư trên 85 tỷ đồng; công trình có công suất thiết kế gần 3.000m2/ngày đêm, đảm bảo cung cấp nước sạch ổn định cho trên 5.000 hộ dân thuộc 5 xã ven biển của huyện An Biên.
Bà Lê Thị Tùng (hơn 50 tuổi, ngụ ấp Đồng Giữa, xã Nam Thái A, huyện An Biên) đã nếm trải hết các vị chua, mặn, ngọt của nguồn nước vùng này qua các thời kỳ, như từ việc trữ nước mưa, tới rửa ghe đi chở nước, đổi nước, mua nước, rồi khoan cây nước...
Giờ đây có được nguồn nước sạch đến tận nhà hơn một tháng nay, bà Tùng hồ hởi: “Nước vùng này bị nhiễm phèn, mặn, đâu có nấu nướng, giặt giũ gì được. Hồi đó, bà con ở đây phải sắm lu khạp chứa nước mưa để xài quanh năm. Hết nước mưa phải đổi nước ghe, một khối tới 50.000 đồng.  Bây giờ, nước sạch vô tới nhà, một khối có 4.800 đồng, phấn khởi lắm”. Còn bà Hồ Thị Hoa, 54 tuổi, ở ấp Ba Biển, xã Nam Thái mừng rỡ: “Nước sinh hoạt bây giờ tốt lắm, mở vòi là có, đầy đặn, đều đều, chất lượng. Hồi đó, dân miệt này nhà xài cây nước, nhà chứa nước mưa. Hết nước phải đi xách, đi đổi xa lắm. Có khi kẹt quá phải lấy nước giếng nấu cơm, vị mặn mặn, kho cá khỏi nêm muối luôn…”.
Theo ông Nguyễn Việt Bình, Phó Chủ tịch UBND huyện An Biên, do nguồn kinh phí có hạn, khi triển khai các dự án đầu tư ở các xã đặc biệt khó khăn bãi ngang ven biển và hải đảo… thì huyện An Biên chủ động kết hợp với nhiều chương trình, dự án, lồng ghép nhiều nguồn vốn để tập trung đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu, theo đặc thù của từng tiểu vùng sản xuất.
Qua đó, vừa góp phần nâng cao đời sống người dân, vừa hỗ trợ chuyển đổi sản xuất hiệu quả theo hướng nâng cao giá trị sản phẩm trên một đơn vị diện tích, thích ứng với biến đổi khí hậu, tạo sinh kế bền vững cho người dân trong điều kiện xâm nhập mặn… 
Nhiều mô hình giúp dân đổi đời
Miệt Thứ thuộc hai huyện An Biên và An Minh có tổng diện tích rộng hơn 99.000 ha, với hơn 70.000 hộ dân. Từ một vùng đất úng phèn, nhiễm mặn, cộng đồng cư dân nơi đây đã khai hoang, phục hóa, cải tạo đồng đất phục vụ trồng lúa 1 vụ, rồi 2 vụ, từng bước chuyển đổi sản xuất, hướng tới các mô hình sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu, tạo sinh kế bền vững theo đặc thù của từng tiểu vùng canh tác.
Làn sóng chuyển đổi sản xuất trên đồng đất Miệt Thứ diễn ra gần hai thập niên qua, nhưng mới thực sự rầm rộ trong vài năm trở lại đây, đặc biệt là sau đợt hạn hán lịch sử năm 2016, đặt ra yêu cầu cấp bách trong việc sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu.
Ông Lương Văn Nhâm, Giám đốc HTX Nông nghiệp Bào Trâm (ấp Bào Trâm, xã Nam Yên, huyện An Biên), nhớ lại: “Năm 2016, vùng này nằm trong địa bàn công bố thiên tai của tỉnh Kiên Giang. Đất đai nhiễm mặn khiến lúa chết đầy đồng, xe hơi chạy ra ruộng còn được, dân khốn khổ lắm”.
Ông Nhâm cho biết, HTX thành lập từ năm 2005 với 102 thành viên, nhưng lúc đầu chỉ trồng lúa, rất bấp bênh, thu nhập chỉ vào khoảng 20 triệu đồng/ha.
Năm 2015, các thành viên HTX bắt đầu chuyển đổi sản xuất và áp dụng luân canh vừa trồng lúa - vừa nuôi tôm, cho thu nhập trên 90 triệu đồng/ha.
Nhờ hiệu quả rõ rệt từ mô hình tôm - lúa, sau đợt đại hạn năm 2016, các hộ xã viên và bà con trong vùng tham gia chuyển đổi sản xuất ngày một nhiều. Đến nay, bà con đã mở rộng mô hình tôm - lúa lên 82ha, chiếm gần một nửa tổng diện tích sản xuất của HTX Bào Trâm.
Theo nguyện vọng của các hộ thành viên, HTX đang triển khai chuyển đổi diện tích canh tác còn lại theo tiến độ phù hợp với quy hoạch của địa phương.
Anh thương binh người dân tộc Khmer Danh Ui là một trong những điển hình của phong trào chuyển đổi sản xuất ở vùng bãi ngang Miệt Thứ.
Đưa chúng tôi ra thăm vuông tôm rộng 3ha của gia đình, anh Danh Ui bộc bạch: “Trước đây gia cảnh thiếu trước hụt sau, đất sản xuất ít, nên chưa dám chuyển đổi mô hình. Sau khi tìm hiểu, đến năm 2015, tôi quyết định chuyển sang mô hình tôm - lúa. Chỉ sau mấy năm chuyển đổi sản xuất theo mô hình mới đã giúp tôi trả hết nợ nần và cất được căn nhà khang trang; đồng thời mua thêm gần 1 ha đất mở rộng sản xuất”.
Có thể nói, chuyển đổi sản xuất trên đồng đất Miệt Thứ ngày càng đi vào bài bản, không thụ động như trước đây, mà được tiến hành một cách linh hoạt trên cơ sở đồng thuận từ các ngành và người dân; thích ứng với xâm nhập mặn từ biển Tây.
Theo đó, trên cơ sở tự nhiên của từng vùng, các địa phương quy hoạch sản xuất linh hoạt theo các tiểu vùng chính; giao đất cho dân nuôi nhuyễn thể hai mãnh võ trên bãi bồi ven biển; khoán đất rừng ven biển cho người dân nuôi thủy sản kết hợp trồng và bảo vệ rừng phòng hộ; khoanh vùng chuyên nuôi trồng thủy sản; nhân rộng mô hình luân canh, xen canh tôm trên đất trồng lúa. 
Những chuyển động đó xuất phát từ chính nỗ lực của cộng đồng cư dân địa phương, đồng thời được tiếp sức bởi các chương trình, dự án đầu tư hiệu quả. Trong đó, có thể cảm nhận rõ từ khi tuyến quốc lộ 63 băng qua cù lao Tắc Cậu với “điểm nhấn” là việc xây dựng hoàn thành cầu Cái Bé, Cái Lớn vào đầu năm 2014 đã khai thông nút thắt, tạo động lực giúp Miệt Thứ đổi đời… 

Tin cùng chuyên mục