Bài dự thi ký văn học chân dung Người đương thời

"Gieo chữ" ở bản Mông Tây Nguyên

"Gieo chữ" ở bản Mông Tây Nguyên

Cơn mưa rừng ào xuống khu dự án kinh tế-quốc phòng (KTQP) Đắk Ngo, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông rầm rập. Những dòng nước đan chặt vào nhau, quất qua, quất lại, làm cho đồi cà phê, vườn điều của khu người Mông vật vã như đang phải chịu một trận đòn roi dữ dội. Con đường đất đỏ đến lớp 1A2 của trường Tiểu học Kim Đồng nổi nước. Hơn ba mươi em học sinh dân tộc Mông vây chặt lấy cô giáo Nguyễn Thị Mến trong tiếng sấm sét nổ ầm ầm như pháo kích. Từ ngoài nhìn vào, tôi ngỡ như thấy một bông hoa rừng đang chúm chúm nở trong trận mưa giữa đại ngàn Tây Nguyên, mà đài hoa là cô giáo Mến, còn cánh hoa là những em nhỏ…    

Khi tình nguyện từ Thanh Hóa vào Tây Nguyên dạy học, ai cũng bảo Mến hâm. Không hâm sao lại rời bỏ quê hương với những con đường phẳng lì, làng quê trù phú, trường học khang trang để đâm đầu vào cái nơi “rừng thiêng, nước độc” này. Những cánh rừng hắt hiu, những con đường tuồn tuột những ngày mưa khắc vào lòng người nỗi gian truân, buồn tẻ. Mến lặng lẽ với những bữa ăn nhiều cá khô, ít rau xanh, thiếu nước và những buổi tối tiếng kẻng sinh hoạt của bộ đội đã muốn đi ngủ.

Lớp học mà Mến làm chủ nhiệm phải mượn hội trường của Chỉ huy Đội 6. Ngày đầu làm quen, Mến nói với bọn trẻ rất nhiều. Học sinh tròn xoe mắt. Chúng thì thầm với nhau bằng những câu nói dân tộc. Mến  hỏi một em: “Dóa có muốn học giỏi không?”, cô bé Mông đứng dậy ngơ ngác, gãi đầu ấp úng: “Ch…ư..chư.. p..âu”. “Em nói bằng tiếng phổ thông cô nghe nào”. “Chư pâu” – Vẫn âm thanh cộc lốc phát ra từ cái miệng chúm chím, e sợ. Mến hỏi thêm ba, bốn học sinh nữa, chúng đều trả lời như vậy. Một em học sinh chừng 10 tuổi đứng dậy nói: “Chúng nó không biết cô nói đâu. “Chư pâu” là không biết à”. Cô giáo trẻ đan hai bàn tay vào nhau, người nóng ran. Mến hít thở, lắc đầu và buông ra một tiếng thở dài. Thì ra trong lớp học của cô đang tồn tại hai thứ “sinh ngữ” – Tiếng phổ thông và tiếng Mông. Học sinh chưa biết tiếng phổ thông thì dạy dỗ thế nào đây? 

Cô giáo Nguyễn Thị Mến đang dạy học sinh người Mông đọc bài.

Cô giáo Nguyễn Thị Mến đang dạy học sinh người Mông đọc bài.

  Đêm ấy, Mến không sao ngủ được. Lật mình qua phải. Nghiêng mình sang trái. Cố ru giấc ngủ bằng những suy nghĩ bộn bề, nhưng con mắt cứ mở thao láo, khoan sâu cái nhìn vào không gian đen đặc. Ở Đắk Ngo, một số thầy, cô giáo đến đây đã bỏ đi. Có người thôi luôn nghề dạy học. Hay mình xin đi nơi khác? Có lẽ về quê hay vào TP. Hồ Chí Minh may ra xin được một việc gì đó dễ chịu hơn? Nhưng lạ quá. Mỗi khi ý nghĩ ấy xuất hiện trong đầu, thì Mến lại như nhìn thấy những cặp mắt trẻ thơ mở to. Những đôi tay bé bỏng, mềm ấm của học sinh người Mông níu chặt lấy cô. Chúng như đồng thanh nói: “Xin cô đừng đi. Chúng con cần cái chữ lắm. Người Mông cần cái chữ lắm”. Mến ôm mặt, lắc đầu. Thời gian như ngừng trôi…

Hồi mới về khu dự án KTQP, chỉ có khoảng 30/1986 người Mông biết nói tiếng phổ thông. Ngay già làng Hạng Seo Vảng từng làm chủ tịch một xã ở tỉnh Lào Cai cũng nói: “Bây giờ mình mất hết cái chính tả rồi. Viết không được đâu”, thì làm sao những người dân bình thường biết chữ? Bộ đội Trung đoàn 720 (Binh đoàn 16) đến hướng dẫn kỹ thuật thâm canh, chăm sóc cây trồng và thu hoạch mùa màng, người dân cứ lắc đầu: “Chư pâu”. Anh em phải áp dụng phương pháp “cầm tay, chỉ việc”, làm đi làm lại nhiều lần bà con mới hiểu. Những hình ảnh ấy cứ tràn vào suy nghĩ của Mến, níu kéo, dằn vặt. Bỏ Đắk Ngo mà đi thì quá dễ. Còn ở lại dạy học thì... Những sợi dây thần kinh của Mến căng lên như dây đàn. Đêm sâu thăm thẳm. Mến rời giường ngủ. Cô đến góc nhà thắp nến rồi ngồi bệt xuống sàn, gò lưng soạn bài cho buổi lên lớp ngày mai.

Ba tháng đầu, Mến hầu như chỉ dạy học sinh bằng ký hiệu. Gương mặt biểu cảm với đôi mắt cười, đôi tay mềm mại, đôi chân nhún nhảy, cô múa lên thứ ngôn ngữ của lòng người. Thân hình mảnh mai của Mến, đôi khi lại giống một dáng cò đang bay lả lướt trên cánh đồng đầy hoa trái. Mến nói. Mến cười. Hệt như một cô gái Mông múa hát theo tiếng khèn gọi bạn. Có lẽ, những diễn viên múa giỏi nhất cũng chỉ mềm mại, uyển chuyển và duyên dáng đến thế là cùng. Phải có tấm lòng yêu trẻ, yêu nghề lắm, cô mới có được những động tác lôi cuốn đến như vậy. Dạy học sinh phát âm, đôi môi Mến lúc thì cong tròn như miệng chén, khi thì hé nở như một nụ hoa, lúc lại mím chặt và mở bừng ra dào dạt. Cô giáo trẻ làm bật ra những tiếng “O, A, G, H, M…” từ những cái miệng chim non của trẻ nhỏ. Học sinh chưa hiểu cách diễn đạt bằng ký hiệu, Mến cầm phấn vẽ hình minh họa lên bảng. Và chiếc bảng đen trở thành một bức tranh tuyệt mỹ, sinh động, đầy ngôn ngữ của tình người.

 Trong lớp của Mến có vài em học sinh lớn tuổi bị lưu ban từ những năm trước nói được tiếng phổ thông. Cô nảy ra một ý nghĩ: sử dụng các em đó làm “phiên dịch”. Mến không dạy theo chương trình định sẵn, mà kết hợp vừa dạy học sinh nói tiếng phổ thông, vừa dạy chương trình lớp Một. Khi cô giáo giảng bài, các “phiên dịch” nói lại bằng tiếng Mông cho các bạn hiểu. Tiếng Phổ thông, tiếng Mông hòa quyện vào nhau, tạo ra những cung bậc lúc thăng, lúc trầm, khi lại thánh thót như tiếng suối Đắk Ngo đang chảy. Đến đoạn thăng hoa, nó rộn rã, dào dạt, quấn quýt như một bản giao hưởng cuồn cuộn chảy vào không gian và thời gian của Tây Nguyên.

Mến hòa mình vào hơi thở của núi rừng, vào nhịp sống giữa bản Mông. Con sông Chu và mảnh đất xứ Thanh đã từng chảy qua tuổi thơ của Mến, giờ đây con suối Đắk Ngo và cuộc sống ở Tây Nguyên đang chảy vào đời cô. Không biết từ lúc nào, những con đường đất đỏ, những đồi cà phê, vườn điều, mà da diết nhất là hình ảnh các em học sinh người Mông đã trở thành niềm say mê, niềm hạnh phúc tràn đầy trong lòng Mến. Một ngày không nhìn thấy các em, một ngày không được cất tiếng giảng bài, Mến thấy bồi hồi, khát khao. Nhiều thầy, cô giáo về Đắk Ngo thấy Mến như vậy, cũng yêu đất, yêu người và không nỡ bỏ đi. 

 Một tuần. Hai tuần… Rồi hai tháng, ba tháng. Một buổi sáng khi mới bước vào lớp, Mến nghe học sinh đồng thanh nói: “Chúng con chào cô! Cô giáo hôm nay đẹp quá”. Mến ngơ ngác, đứng yên như bức tượng. Các em học sinh ùa cả lại. Chúng tranh nhau ôm lấy người cô giáo. Mến cảm thấy như mình bay lên. Nước mắt cô trào ra, nhưng nụ cười làm cây rừng cũng phải nghiêng ngả, ngất ngây. Đất trời như vỡ òa trong niềm hạnh phúc lớn lao của cô trò lớp 1A2. Mến muốn chạy ra các ngả đường, lội lên nương rẫy, rồi ngược xuống con suối Đắk Ngo hét toáng lên ngàn lần: “Học sinh của tôi biết nói tiếng phổ thông rồi”. Nếu ai đã từng chứng kiến cảm giác trào dâng của người mẹ khi nghe thấy đứa con bé bỏng của mình cất tiếng nói đầu tiên, thì cảm giác của Mến bây giờ cũng vậy. Đây Chang Thị Lan, Vừ Văn Sự, kia Hạng Thị Thu, Lý Văn Dũng, Vàng A Tủa… Chúng như những thiên thần bé nhỏ. Mới ngày nào thôi, cô giáo đối với các em như một người xa lạ. Giờ đây, hình bóng ấy thân thương và gần gũi quá chừng. Đợi các bạn buông cô giáo ra, Thào Thị Ban chạy lại ôm lấy cổ cô ngập ngừng: “Cô..ơ..i cô. Con…c..on yêu cô”. Nói xong, cô bé bật khóc nức nở. Nó khóc như chưa bao giờ được khóc. “Ban ơi! Cô cũng yêu các con lắm” – Nước mắt hạnh phúc của cô giáo trẻ tuôn ra như mưa…

Người Mông có câu: “Biết nói người ta yêu, biết cười người ta quý”. Tiếng nói, nụ cười của cô giáo Nguyễn Thị Mến không chỉ làm người dân bản Mông yêu quý, mà nó lan tỏa ra khắp khu dự án KTQP. Người Mông ở đây còn truyền tai nhau chuyện cô giáo Mến đi xin cơm cho học sinh ăn, chuyện cô vận động những học sinh bỏ học trở lại lớp.

 Vừ Văn Sự là con của một gia đình nghèo. Nhiều buổi đến lớp, em chẳng có hột cơm nào bỏ vào bụng. Một lần đang ngồi học, mắt của Sự hoa lên, chân tay run rẩy. Cậu bé gục mặt lên bàn. Cô giáo Mến cuống cuồng thoa dầu, bế em về căn nhà mình đang ở. Người cậu bé không nóng, nhưng run bần bật. Gặng hỏi mãi, Sự mới trả lời cô giáo: “Con đói”. Trời đất. Mới trưa xong mà sao đã đói? Mến cầm bát chạy xuống bếp. Chẳng còn một hột cơm dính nồi. Cô tất tả sang những nhà bên cạnh. Cuối cùng Mến cũng mang được một bát cơm về nhà. Nhìn thấy cơm, Vừ Văn Sự sáng mắt lên. Cậu bé kéo nhanh bát cơm vào miệng. “Ăn từ từ thôi con, kẻo nghẹn đấy”. Sự đưa ánh mắt đẫm lệ nhìn cô giáo…

Năm nào cũng vậy, Trường Kim Đồng luôn trăn trở vì không ít học sinh bỏ học giữa chừng. Cuộc sống còn nhiều thiếu thốn, khiến nương rẫy lôi tuột các em ra khỏi lớp. Học sinh lớn tuổi mắc cỡ với bạn bè cũng bỏ học. Một số học sinh tuổi 13, 14 rời lớp trở thành những cô dâu, chú rể bất đắc dĩ và chẳng bao lâu đã cất “lời ru buồn” trên non cao. “Phải giúp các em thoát ra khỏi vòng xoáy cuộc đời” - Mến tự nhủ. Hễ có em học sinh nào vắng mặt hai, ba buổi học là cô đi đến tận nhà để tìm hiểu, vận động các em đến lớp. Có nhà Mến đến cả chục lần. Em Chang Thị Lan đã bỏ học hơn chục ngày để lên rẫy cùng bố mẹ. Cô giáo đến nhà khuyên nhủ, Lan không nghe. Em muốn đi học, nhưng thương cha mẹ vất vả lắm. Không nản. Chiều nào Mến cũng đi bộ đến nhà học sinh. Cô dạy chữ cho Lan tại nhà, kể cho em nghe chuyện về những tấm gương học sinh nghèo hiếu học, sau đã thành tài. Cô nói với bố mẹ Lan phải cho con học cái chữ, mới sáng cái đầu, ngày sau sẽ không bị đói nghèo nữa. Mến nhiệt tình đến nỗi bố em Lan phải nói với con: “Cô giáo thương mày quá rồi đấy, phải đi học thôi Lan à”. Hôm sau, Mến đã thấy Lan cắp sách tới trường.

Nghe chuyện cô giáo Mến, tôi lại nhớ đến các thầy cô giáo đã dạy mình ngày xưa. Ngày đó các thầy cô nghèo lắm. Nghèo đến nỗi chỉ có một, hoặc hai bộ quần áo lành để lên lớp. Thầy cô tôi cũng giống như các thầy, cô giáo ở Đắk Ngo bây giờ. Với những bữa cơm “canh rau muống, cà dầm tương” đạm bạc, mà đã dạy dỗ chúng tôi nên người, sau này trở thành những kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ và những sĩ quan quân đội. Thế mới biết, khi người thầy đã hết lòng vì học sinh, yêu nghề đến cháy bỏng, thì chẳng có khó khăn, trở ngại nào làm lung lay ý chí phấn đấu vì sự nghiệp trồng người của họ. 


Mùa mưa năm 2009, tôi trở lại Đắk Ngo khi lớp học của cô giáo Nguyễn Thị Mến sắp nghỉ hè. Năm nay lớp 1A2 có nhiều em đạt danh hiệu học sinh giỏi, hơn 98% học sinh được lên lớp. Cách xa lớp cả 100m, tôi đã nghe tiếng học sinh đọc bài: 

“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều…”

Chao ơi! Những âm thanh sao mà vang vọng, lảnh lót như khúc hát của núi rừng. Âm thanh ấy như khắc vào không gian, gõ vào thời gian và dội vào lòng tôi, rạo rực. Vẫn những lời nói như thơ. Vẫn thân hình mảnh mai như một cánh cò. Vẫn ánh mắt cười chứa chan tình người, tình yêu nghề. Cô giáo Nguyễn Thị Mến đang “gieo” chữ cho trẻ thơ, giống như người ta đang gieo hạt trên cao nguyên màu mỡ này. Những con chữ ấy ngày càng sinh sôi, nẩy nở, tràn ngập trên những trang giấy học trò và giọng nói, tiếng cười, câu hát của các em.

Đắk Ngo bước vào hè. Hoa phượng đỏ rực, hoa cúc quỳ vàng xộm thi nhau nở. Đi trong khu dự án KTQP mà tôi cứ ngỡ như đi giữa Hải Phòng, hay mơn man với chiều tím Đà Lạt. Tháng ba mới là mùa con ong đi lấy mật, nhưng mùa này chúng vẫn bay dập dìu bên những cánh hoa, hệt như cô giáo Nguyễn Thị Mến cùng các đồng nghiệp đang “gieo chữ” ở bản Mông vậy. Trong tiếng ve sầu cưa hối hả vào không gian Tây Nguyên, tôi như thấy mảnh đất này đang căng rộng ra, trù phú, khát khao, mời gọi…

PHÚ HƯNG

Tin cùng chuyên mục