Tuổi trên 90 nhưng ông vẫn còn minh mẫn lắm. Ngồi với ông để nghe về chuyện đời, chuyện binh nghiệp và nhất là những ký ức về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ mà ông đã từng tham gia trong vai trò thủ lĩnh 65 năm trước, mới hay cái dư âm của cuộc khởi nghĩa vẫn chưa hề nguội lạnh trong tâm tưởng của ông về một thời nằm gai nếm mật. Đó là Trung tướng Nguyễn Đôn (ảnh), một trong ba thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi).
Nói đến Đội du kích Ba Tơ, người ta thường nhắc đến ba người: Phạm Kiệt, Nguyễn Khoách và Nguyễn Đôn. Phạm Kiệt là đội trưởng, hai người còn lại là đội phó ngay từ ngày đầu thành lập đội du kích. Cả ba đều cùng quê huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. Nhắc đến tướng Kiệt, người ta không chỉ nhớ đến ông với tư cách là Đội trưởng Du kích Ba Tơ đầu tiên mà còn biết ông là nhà quân sự có nhãn quan đặc biệt. Còn Đội phó Nguyễn Khoách là một trong hai thủ lĩnh đầu tiên (cùng với tướng Võ Bẩm) được Bác Hồ giao nhiệm vụ mở đường Trường Sơn năm 1959. Tướng Kiệt đã mất, ông Khoách cũng đã về với tổ tiên, chỉ còn tướng Đôn là minh mẫn. Nhờ cái minh mẫn ấy, ông đã đưa chúng tôi đi dọc chiều dài của ký ức 65 năm…
Nghe tiếng khua cổng, vị tướng già ra mở cửa. Đã qua tuổi 90 nhưng bước chân ông vẫn vững chắc. Ký ức ùa về, ông kể: “Ngày đó sợ mấy “ông đỏ” tiếp tục hoạt động sau khi đã mãn hạn tù, thực dân Pháp đã lập hàng loạt căng an trí ở các huyện miền núi của Quảng Ngãi, trong đó có căng an trí Ba Tơ. Cái thằng Tây này nó cũng kỳ thiệt, lên Ba Tơ hồi ấy là đồng nghĩa với đi đày, thế mà nó gọi là đi “an trí”, rồi ai cũng gọi theo, cứ nghe như là đi… an dưỡng không bằng!”.
“Tôi cho rằng cuộc khởi nghĩa Ba Tơ rồi sự ra đời của đội quân du kích là một may mắn của lịch sử, vì phần lớn những người tù tại căng an trí này đều là những nhà lãnh đạo cách mạng bấy giờ. Những năm ấy, thực dân Pháp ở Đông Dương gần như kiệt quệ về tài chính. Thôi thì cho những “ông đỏ” này lên Ba Tơ tự túc tự cấp, ngân sách nước Pháp khỏi phải nuôi tù mà còn quản lý được hoạt động của họ. Nhân thể, cũng mượn chốn rừng thiêng nước độc này kết liễu luôn cuộc sống của những người cộng sản. Trong cái họa nó có cái phúc là vậy” - ông kể.
Trở về ký ức của của những trận đánh, của một giai đoạn lịch sử hào hùng ấy vậy mà tướng Đôn rất ít khi nhắc đến cuộc đời quân ngũ của mình, dù đời binh nghiệp của ông luôn gắn với những chiến công. Ông nói rằng, chính cuộc trường chinh cùng dân tộc là trường quân sự lớn nhất đã dạy cho ông và những người cùng thế hệ trở thành những vị tướng, góp công sức vào thắng lợi chung của dân tộc.
Ông nhớ lại: “Đã có lúc, đội du kích Ba Tơ phải thắt lòng thịt con ngựa duy nhất của đội làm lương thảo cho cả đơn vị. Trong những khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, người chỉ huy phải dám đưa ra quyết định cuối cùng và phải chịu trách nhiệm. Phát triển đội du kích về đồng bằng ngay vào thời điểm khó khăn nhất là một quyết định mang tính chiến lược. Nếu không có quyết định lịch sử ấy, làm sao có đủ lực lượng để tham gia khởi nghĩa giành chính quyền vào tháng 8-1945 và cũng khó có những người chỉ huy quân sự tài năng của khu V đóng góp cho cuộc kháng chiến ở Nam bộ bấy giờ”.
Bước chân của ông đã ngang dọc mọi vùng rừng của khu V trong chống Pháp rồi chống Mỹ, mang quân hàm Trung tướng, Tư lệnh quân khu, từng chỉ huy những trận đánh lớn trong chiến tranh chống Mỹ nhưng bao giờ ông cũng nghĩ mình là một người lính bình thường: “Tôi vẫn luôn nghĩ mình là lính. Cái từ ấy nó thiêng liêng lắm, nó kiêu hãnh lắm nhưng nó cũng đời lắm”…
Chúng tôi hiểu những ẩn ý của ông phía sau nhưng con chữ ngắn gọn và dung dị ấy. Vì thế, khi nghe chúng tôi khoe về những thành tựu của Quảng Ngãi 65 năm sau khởi nghĩa Ba Tơ, ánh mắt ông lại ánh lên niềm vui. “Thương đồng bào không phải là mang gạo và mắm cho họ hàng tháng mà cái chính là bày việc cho họ làm. Họ đã chia từng mẩu củ sắn để nuôi cách mạng ngay từ thời trứng nước thì không lý do gì không đưa họ thoát khỏi đói nghèo. Ba Tơ đã trở thành huyện Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. Điều đó cũng tốt thôi, nhưng anh hùng phải xứng danh chứ đừng chạy theo thành tích mà để dân đói là có tội với bà con”, ông tâm sự. Chúng tôi rời nhà ông cùng với những trăn trở của người lính già về đời sống của bà con, của mảnh đất đã từng cưu mang ông và đồng đội…
HÀ NHIÊN - HÀ MINH