Vậy là sự ngóng chờ một mùa “lũ đẹp” đã không đến. Bước sang tháng 9 (nhằm tháng 8 âm lịch) mà con nước ở các triền sông vẫn lé đé như ngày thường. Các lão nông chuyên sống bằng nghề đánh bắt thủy sản ở đầu nguồn Tân Châu (An Giang), Hồng Ngự (Đồng Tháp)… gần như xếp xó bếp các dụng cụ đánh bắt. Đến thời điểm này có thể khẳng định “mùa nước nổi” ở ĐBSCL đang “kiệt quệ”!
Cách đây 16 năm, năm 2000 lũ sớm đã ập về vào tháng 7 (nhằm tháng 6 âm lịch) nhấn chìm hàng ngàn hécta lúa. Cảnh nhà dân chìm trong nước, người dân di dời đến các tuyến đê cao, gò đất sinh sống… được các phương tiện truyền thông đưa liên tục. Dưới ruộng, bộ đội hì hục ngụp lặn cắt lúa chìm trong nước giúp nông dân. Lúa nông dân phơi đầy các tuyến lộ, trong cả trụ sở chính quyền để “chạy mộng”. Kèm theo đó, là không ít người dân vùng lũ phải “chạy lũ” lên tận Sài Gòn tìm kế sinh nhai. Đó cũng là dấu mốc nhiều công trình cơ sở hạ tầng được đầu tư cho khu vực ĐBSCL để “chung sống với lũ”. Còn trước năm 2000 chủ yếu theo phương châm “né lũ”. Từ hệ thống thủy lợi thoát lũ ra biển Tây, đê bao bảo vệ lúa, các tuyến, khu dân cư vượt lũ bắt đầu hình thành. Dần dần cuộc sống người dân được an cư và chủ động sinh kế trong mùa lũ. Đó là lúc các lão nông và truyền thông dùng từ “lũ đẹp” để chỉ mùa nước nổi về.
Chỉ tính riêng Đồng Tháp và An Giang, các chương trình khai thác mùa nước nổi đã mang về giá trị 5.000 tỷ đồng/mùa. Thế nhưng từ năm 2012 đến nay, mùa nước nổi ở ĐBSCL gần như vắng bóng. Nguyên nhân thì nhiều người đã rõ: Các nước thượng nguồn sông Mekong đua nhau xây đập thủy điện làm nguồn nước đổ về hạ lưu sông Mekong suy giảm nghiêm trọng.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng cực đoan, tình trạng thiếu nước ngọt từ sông Mekong đang gây hệ lụy “kép” đến ĐBSCL: Thiếu nước ngọt sản xuất, sinh hoạt; mùa khô mặn xâm nhập sâu vào nội đồng. Các nhà khoa học thì lo lắng cho tương lai của ĐBSCL: lượng phù sa theo con nước sông Mekong trôi về bồi lắng cho ĐBSCL ngày càng xa vắng. Hiện tượng sụp lún đất đang diễn ra nhiều nơi. Đây là thiệt hại mà theo các nhà khoa học là “không thể thay thế”!
Đáng lo hơn, theo thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về sinh thái ĐBSCL: Nguồn nước mặt ở ĐBSCL bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng từ nhiều nguồn thải ra. Ở những vùng đê bao khép kín canh tác 3 vụ lúa mỗi năm, nước bị tù đọng trong kênh rạch bên trong các ô đê bao, tích tụ nhiều hóa chất nông nghiệp. Các vùng nuôi thủy sản cũng thải ra một lượng lớn chất ô nhiễm hữu cơ và hóa chất vào nguồn nước. Sự phát triển nhanh các dự án công nghiệp, đặc biệt là các khu công nghiệp, nhà máy điện than… ven sông, ven biển, xả nước thải và nước làm mát vào nguồn nước đe dọa trực tiếp đến nguồn nước ĐBSCL. Hệ thống kênh rạch ĐBSCL cũng đang phải tiếp nhận một lượng lớn chất thải sinh hoạt và chăn nuôi từ các khu dân cư. Hệ sinh thái ĐBSCL chủ yếu là hệ sinh thái đất ngập nước, vì vậy ô nhiễm nguồn nước chính là ô nhiễm “máu” của hệ sinh thái.
ĐBSCL với diện tích khoảng 4 triệu ha, có thể xem là một vùng đất ngập nước rộng lớn. Ngày nay phần lớn diện tích đất ngập nước ĐBSCL đã được canh tác nông nghiệp. Các điểm nóng đa dạng sinh học chủ yếu là trong các khu bảo tồn chỉ chiếm chưa đến 10% diện tích đất ĐBSCL. BĐKH đang diễn ra với những biểu hiện như nhiệt độ tăng, thay đổi lượng mưa, thay đổi dòng chảy sông Mekong, hạn hán, xâm nhập mặn, nước biển dâng; gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái và đa dạng sinh học đất ngập nước ĐBSCL. Các nhà khoa học cho rằng, tới đây cần thực hiện đánh giá môi trường chiến lược cẩn trọng trong lựa chọn vị trí, công nghệ phù hợp đối với các khu công nghiệp lớn trước khi thực hiện đánh giá tác động môi trường một cách chặt chẽ cho từng dự án nhằm đưa ra những quyết định mang tầm chiến lược bảo vệ nguồn nước hay “mạch máu” của ĐBSCL. Đồng thời, xem xét lại chiến lược an ninh lương thực, giảm việc thâm canh 3 vụ lúa mỗi năm để tăng không gian trữ lũ, hạn chế xâm nhập mặn và giảm sử dụng hóa chất nông nghiệp.
Lũ không về, ĐBSCL đang “trơ bày” ra nhiều thách thức: không chỉ là chuyện giải quyết sinh kế cho hàng trăm ngàn lao động “hụt hẫng với con nước”, mà còn là chuyện nguồn nước ngọt phục vụ sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp. Đa dạng sinh học suy kiệt, xu hướng đất đai cằn cỗi ngày càng lộ diện. Không còn là chuyện cảnh báo, đến lúc các nhà khoa học, chính quyền nên bắt tay vào việc “quy hoạch chi tiết” để ĐBSCL thích ứng với BĐKH, tạo ra sinh kế ổn định cho hàng triệu người dân trong vùng khi không có mùa nước nổi.
CAO PHONG