Nền giáo dục thiếu triết lý như thiếu ngọn hải đăng dẫn đường

So sánh mục tiêu, nội dung và phương pháp của dự án luật lần này với Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua cách đây 20 năm, ĐB Phạm Trọng Nhân cho rằng dường như không thay đổi gì nhiều. 
ĐBQH Phạm Trọng Nhân
ĐBQH Phạm Trọng Nhân

Sáng 15-11, Quốc hội thảo luận về Luật Giáo dục sửa đổi. Theo kế hoạch ban đầu, Quốc hội sẽ dành trọn 1 ngày để thảo luận luật này, tuy nhiên sau đó Quốc hội rút xuống còn thảo luận nửa ngày.

Tuy nhiên, có tới hơn 60 đại biểu đăng ký thảo luận, vì thế ĐB Dương Minh Tuấn (Bà Rịa - Vũng Tàu) cho rằng Quốc hội nên dành một buổi riêng để thảo luận về dự án luật này.

Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng, do luật này Quốc hội sẽ xem xét, thông qua ở 3 kỳ họp, còn lấy ý kiến nhân dân, Quốc hội cũng sẽ tổ chức hội nghị ĐBQH chuyên trách để lấy ý kiến sâu, do đó, xin giữ như chương trình đã điều chỉnh.

Thảo luận của các ĐBQH về dự thảo luật này trải rộng trên nhiều nội dung, từ vấn đề triết lý giáo dục, chuẩn giáo viên, đào tạo giáo viên, liên thông giữa các cấp học... đến chương trình, sách giáo khoa (SGK)…

Đáng chú ý trong phiên thảo luận sáng nay, ĐB Phạm Trọng Nhân (Bình Dương) đã đưa ra yêu cầu: Luật Giáo dục phải rõ triết lý giáo dục của Việt Nam. Ông cho rằng, không quá khó để tìm một câu khẩu hiệu trong các trường học hiện nay, nhưng trong hàng chục khẩu hiệu được quy định bởi Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) không có khẩu hiệu nào đủ cô đọng, khái quát ở tầm tư tưởng để định hướng triết lý giáo dục ở Việt Nam.

Việc cắp sách đến trường mới chỉ dừng lại ở nghĩa vụ

ĐB Phạm Trọng Nhân cho rằng, triết lý giáo dục vốn được xem là kim chỉ nam trong toàn bộ hoạt động giáo dục, được xây dựng trên 4 trụ cột chính: đối tượng, mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục. Đất nước Phần Lan có triết lý giáo dục “phải có niềm tin vào con người”;  Singapore với nền tảng “trường học tư duy, quốc gia học tập”; Nhật Bản vận hành theo triết lý “một người học sẽ trở thành một cá nhân hoàn thiện đạo đức”...

Trên nền tảng đó, những cơ chế, chính sách giáo dục được ban hành nhằm thỏa mãn các điều kiện của 4 trụ cột, do đó nền giáo dục của các quốc gia trên đạt trình độ phát triển, được cả thế giới thừa nhận.

“Từ triết lý giáo dục của các nước, không ít các học giả, nhà nghiên cứu đặt câu hỏi vậy triết lý giáo dục của Việt Nam là gì? Liệu từ mục tiêu, nội dung và phương pháp được chế định trong dự án Luật lần này chúng ta soi rọi được gì để có thể khái quát thành triết lý giáo dục của Việt Nam?”, ông nêu câu hỏi.

So sánh mục tiêu, nội dung và phương pháp của dự án luật lần này với Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua cách đây 20 năm, ĐB Phạm Trọng Nhân cho rằng dường như không thay đổi gì nhiều.

“Đành rằng các giá trị được xem là phổ quát phải được gìn giữ, nhưng trong từng thời kỳ phát triển khác nhau, yêu cầu khác nhau đòi hỏi những trụ cột của triết lý phải được vận hành theo hướng đổi mới để phù hợp với thời cuộc. Vì đầu ra của giáo dục chính là những con người quyết định sự hưng thịnh hay tồn vong của một quốc gia, dân tộc”, ĐB Phạm Trọng Nhân nêu.

Ông cũng cho rằng, nội dung, phương pháp giáo dục bao năm qua vấp phải không ít phản ứng của dư luận xã hội.

“Nguyên Bộ trưởng GD-ĐT Phạm Vũ Luận từng thừa nhận phương thức giáo dục của chúng ta hiện nay vẫn như 50-60 năm qua, tức là tiền bối dạy sao, ta dạy lại thế hệ sau như thế. Từ nhận định trên có thể thấy cỗ máy giáo dục với những tư duy, nội dung, phương pháp giáo dục vẫn chưa có nhiều thay đổi để thích ứng với gia tốc ngày càng nhanh của xã hội. Do đó sự bất tương xứng với yêu cầu, đòi hỏi của xã hội với năng lực quản lý nhà nước về giáo dục là một điều tất yếu”, ĐB Phạm Trọng Nhân phân tích.
Theo ĐB Phạm Trọng Nhân, rõ ràng tính cơ bản, toàn diện, thiết thực thời đại của nội dung giáo dục và tính tích cực, tự giác của người học trong phương pháp giáo dục chưa đạt được, dù đã được đặt ra trong suốt 20 năm qua nhằm xây dựng các giá trị phẩm hạnh cần có của người học nói riêng và hướng tới hình mẫu của công dân quốc gia nói chung.

“Phải chăng sự kiên trì đeo đuổi phương pháp giáo dục 20 năm qua vẫn chưa thể phát huy được các đức tính cần có của người học? Không hiếm trường hợp người học, sinh viên ra trường không viết được nổi một văn bản hay nhiều doanh nghiệp than phiền khi phải tuyển dụng sinh viên vừa tốt nghiệp. Dường như việc chưa dành nhiều thời gian để đào tạo kỹ năng mềm từ nhà trường và tính chưa tự giác của người học đã cho ra đời những sản phẩm giáo dục khó lòng đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng và xã hội”, ĐB nói.

Vẫn theo ông, việc cắp sách đến trường mới chỉ dừng lại ở nghĩa vụ mà chưa phải là niềm vui, niềm khao khát được hướng dẫn để tiếp cận kho tàng tri thức của nhân loại. Một trong những mục tiêu của giáo dục là hội nhập quốc tế nhưng toàn bộ dự án Luật không có bất cứ điều khoản nào quy định ngoại ngữ là một công cụ bắt buộc, hình thành nền tảng cơ bản nhất cho hội nhập. Tuy học sinh chúng ta được học tiếng Anh từ rất sớm nhưng nhiều trường hợp không thể sử dụng được tiếng Anh sau khi tốt nghiệp THPT. Sứ mệnh của giáo dục với mục tiêu hội nhập quốc tế sẽ được thực hiện như thế nào khi điểm trung bình môn tiếng Anh 3 năm vừa qua của Kỳ thi THPT quốc gia không vượt qua nổi con số 5.

Một trong những mục tiêu của giáo dục là hội nhập quốc tế nhưng toàn bộ dự án Luật không có bất cứ điều khoản nào quy định ngoại ngữ là một công cụ bắt buộc, hình thành nền tảng cơ bản nhất cho hội nhập.
“Nhìn các bạn trẻ sinh vào năm 2000 khi đất nước đã đi được một chặng đường hội nhập khá dài phải vất vả bập bẹ tiếng Anh mới có thể giới thiệu được tên tuổi, dự định tương lai mới thấy mục tiêu hội nhập quốc tế của giáo dục còn nhiều chông gai. Nó sẽ còn chông gai hơn nếu không chế định tiếng Anh là công cụ bắt buộc trong hệ thống giáo dục như Singapore hay Philippines từng làm”, ĐB Phạm Trọng Nhân nêu.
Xã hội sẵn sàng chờ đợi đủ lâu cho một triết lý giáo dục đúng tầm

Từ những phân tích trên, ĐB Phạm Trọng Nhân cho rằng, triết lý giáo dục phải được nêu rõ ràng trong Luật Giáo dục. Mong muốn của xã hội là trong giai đoạn mới, với sự thay đổi chóng mặt của khoa học kỹ thuật công nghệ thì một trong những phương pháp giáo dục phải là khai phóng, hướng tới từng người học, giúp các em chủ động trong nhận thức độc lập, trong tư duy sáng tạo để có thể tự kết nối, tự kiểm soát và thích ứng với sự thay đổi khó đoán định của thế giới hiện nay. Muốn thế, cần mạnh dạn tháo bỏ tư duy cũ kỹ đã ăn sâu vào tiềm thức trong dạy và học.

“Đời người chỉ có một thời gian ngắn ngủi ngồi trên ghế nhà trường, do đó những gì là tinh hoa của nhân loại, dân tộc và thời đại cần phải được chắt lọc để hướng dẫn thế hệ trẻ. Chúng ta chưa thể đưa đất nước sánh vai cùng các cường quốc thì chí ít cũng tạo được một nền tảng vững chắc của đạo luật này để thế hệ trẻ hiện thực hóa lời căn dặn của tiền nhân”, ĐB Phạm Trọng Nhân phát biểu.

Vẫn theo ông, các trụ cột của triết lý giáo dục dù được diễn giải như thế nào đi chăng nữa thì cũng không vượt qua phạm trù cơ bản là đạo đức và tri thức, đó cũng là sứ mệnh, là hồn cốt triết lý của giáo dục. Chất liệu chính của một triết lý giáo dục có thể là sự hướng thiện con người đi cùng với suy tư, trăn trở về trách nhiệm của bản thân trước vận mệnh thịnh suy của đất nước.

“Một nền giáo dục thiếu triết lý như thiếu một ngọn hải đăng dẫn đường. Thiếu triết lý giáo dục cũng góp phần làm đất nước thiếu đi một triết lý phát triển, vì tất cả khởi thủy từ giáo dục. Quốc hội đã quyết tâm cho một lần sửa đổi Luật Giáo dục toàn diện thì cũng cần thêm một lần mạnh dạn tư duy cho một nền giáo dục thỏa mãn điều kiện và yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0", ĐB Phạm Trọng Nhân nêu rõ.

Thiếu triết lý giáo dục cũng góp phần làm đất nước thiếu đi một triết lý phát triển, vì tất cả khởi thủy từ giáo dục.
Xã hội sẵn sàng chờ đợi đủ lâu cho một triết lý giáo dục đúng tầm, đúc kết từ văn hóa truyền thống ngàn đời của dân tộc và hơi thở của thời đại để định hướng cho 4 trụ cột bằng những cam kết chính sách nhất quán trong toàn bộ hệ thống pháp luật để bảo đảm vận hành đúng tinh thần triết lý ấy...”, ĐB Phạm Trọng Nhân chốt lại.

Tin cùng chuyên mục