Nghĩa tình sưởi ấm Đăk Nhoong

Chữ về cho lúa thêm bông
Nghĩa tình sưởi ấm Đăk Nhoong

Trên đỉnh cao Đăk Nhoong thuộc Tây Trường Sơn của huyện biên giới Đăk Glei, có một đồn biên phòng vững chãi trên đỉnh núi. Đó là Đồn biên phòng 669 thuộc Bộ đội Biên phòng Kon Tum. Những người lính mang quân hàm xanh trên núi rừng cao nguyên này không chỉ bảo vệ hơn 30km đường biên giới mà còn là những thầy giáo thân thương của đồng bào dân tộc xã vùng cao Đăk Nhoong, huyện Đăk Glei.

Chiến sĩ Đồn biên phòng 669 trở nên thân thương với người dân xã nghèo Đăk Nhoong.

Chiến sĩ Đồn biên phòng 669 trở nên thân thương với người dân xã nghèo Đăk Nhoong.

Chữ về cho lúa thêm bông

Trung tá Nguyễn Ngọc Lệ, Bí thư chi bộ Đồn 669 cho biết: Là xã vùng sâu giáp với nước bạn Lào, Đăk Nhoong có hơn 300 hộ, hơn 1.500 khẩu. 100% người dân xã là đồng bào dân tộc Giẻ Triêng sống rải rác ở 7 làng với địa hình chia cắt, đời sống của bà con rất khó khăn, đặc biệt là số người mù chữ chiếm hơn 90% dân số. Trước thực trạng đó, những người lính biên phòng quyết tâm xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học cho người dân xã Đăk Nhoong.

Ngày ấy, trung úy - đảng viên trẻ, Bí thư chi đoàn Trần Quốc Tuấn được cử làm đội trưởng đội vận động quần chúng gồm 12 bạn trẻ tốt nghiệp THPT và biết tiếng Giẻ Triêng với nhiệm vụ chính là ban đêm dạy học, ban ngày cùng với bà con tổ chức sản xuất.

Trung úy Tuấn kể lại: “Lúc được chi bộ giao nhiệm vụ dạy học, tôi rất lo bởi bao nhiêu năm trong xã không có người học hết lớp 5, trẻ em học được vài ba tháng là bỏ học đi làm rẫy hết, không ai nói mà bà con nghe”. Tuấn đã sống ở vùng biên giới khá lâu, gắn bó với người Giẻ Triêng. Theo Tuấn, bà con rất tốt bụng, yêu quý bộ đội biên phòng nhưng vì đã bao đời nay quen nếp sống không con chữ nên bây giờ thay đổi là khó lắm.

Tuấn rủ thêm Trực, Long - những đồng đội của mình hàng đêm đến nói chuyện với các già làng và một số người có uy tín để tuyên truyền, vận động bà con đăng ký đi học. Người nghe theo lời của đội trưởng Tuấn ít, mà số người không ủng hộ thì nhiều. Tuấn nói với bà con: “Phải có cái chữ thì bà con mới làm cái lúa có nhiều bông, bắp nhiều hạt, mới biết cách đưa điện sáng về làng; có chữ sẽ không nghèo, không còn đói cái bụng nữa...”. Người không ủng hộ lại cho rằng: “Ô, cái cán bộ Tuấn nó chỉ nói hay cái miệng thôi. Làm không có được đâu, học cái chữ khó lắm...”.

Vì thế, không chỉ tuyên truyền mà Tuấn và đồng đội mỗi khi có việc phải ra huyện hay về tỉnh đều đưa một số người là già làng và có uy tín đi theo, dẫn đến thăm một số gia đình dân tộc thiểu số để bà con nghe mà thấy chuyện học hành và cuộc sống mới của một số dân tộc khác như Xơ Đăng, Ba Na trong tỉnh.

Thế là bà con dần dần nghe ra, cho con em đăng ký đi học. Học viên nhỏ nhất là 7 tuổi, cao tuổi nhất là 38. Trần Quốc Tuấn đề nghị với chi bộ và lãnh đạo đồn cùng với nhân dân xây dựng 5 phòng học, đóng 5 bảng đen, 100 bộ bàn ghế và các nhu cầu khác phục vụ cho việc khai giảng các lớp học đầu tiên.

Tuấn xúc động nhớ lại: “Ngày khai giảng lớp học đầu tiên đúng như ngày hội và còn hơn cả các lễ hội như đâm trâu, mừng lúa mới... của làng. Vì đi học đông như thế là một sự kiện chưa từng có ở vùng biên giới quanh năm mờ sương như Đăk Nhoong này”.

Biết khó nhưng không ngại khó

Mở được lớp đã khó, việc duy trì và phát triển sĩ số học viên lại khó khăn gấp bội. Thời kỳ đầu, số học viên bỏ học quá nhiều. Có những lớp chỉ còn từ 7 đến 10 người. Biết khó nhưng không ngại khó. Những chiến sĩ trong đội lại ngày đêm bám dân, bám lớp. Khi lên rẫy, lúc dựng nhà, trồng lúa, tỉa bắp trên nương; khi chung vui bên ché rượu cần.

Từ đó, bà con hiểu được “cái bụng” tốt của người lính nên đã coi anh em như những người con thân yêu nhất. Riêng đội trưởng Trần Quốc Tuấn thì được gọi bằng cái tên thân quý: Thầy giáo bản làng A Tuấn.

Cả xã có 7 làng. Làng xa nhất là Đăk Nớ Pin phải mất một ngày đường đi bộ. Mỗi chiến sĩ - thầy giáo được giao nhiệm vụ phụ trách chủ nhiệm lớp học của 1 làng. Nhưng có lẽ, người vất vả nhất và cũng nhiều kỷ niệm hơn cả là Thiếu úy Đặng Trung Trực, phụ trách làng Roóc Mầm - Roóc Mẹt; Nguyễn Văn Minh phụ trách làng xa nhất Đăk Nớ Pin...

Cứ mỗi tháng một lần, các anh từ làng trở về đồn báo cáo tình hình công tác. Có nhiều lúc, học sinh bị ốm, các anh phải thay nhau cõng vượt rừng, băng suối về đồn điều trị. Có những chiến sĩ suốt 3 tháng liền, mỗi ngày phải đảm nhận 3 lớp: sáng lớp 1, chiều lớp 3, tối lớp xóa mù chữ nhưng rồi bằng nhiệt huyết của tuổi trẻ và tấm lòng với bà con, tất cả đã vượt khó.

Không chỉ đem con chữ về bản làng, nhiều năm qua Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Kon Tum còn tổ chức xây dựng Đăk Nhoong thành mô hình “điểm sáng vùng biên” với việc đầu tư trên 2,5 tỷ đồng giúp xã định canh định cư cho gần 100% số hộ; làm mới 20km đường liên xã, xây dựng 2 trường học kiên cố tại làng Đăk Ung và cụm Roóc Mẹt - Roóc Mầm, xây dựng 3 công trình nước sạch, 2 đập thủy lợi để bà con trồng lúa nước và trồng trình diễn gần 100ha cây ăn quả các loại.

“Cơm no, áo ấm, cái chữ, cái tình” hôm nay có được như lời của đồng bào Giẻ Triêng, là nhờ ơn của Đồn Biên phòng 669 nhiều lắm. Nghĩa tình của những người lính mang quân hàm xanh mãi sưởi ấm Đăk Nhoong.

Thanh Hải 

Tin cùng chuyên mục