Xã Sơn Bình - Khánh Sơn - Khánh Hòa, nơi nghệ nhân Mấu Thị Diên sinh sống, năm nay cụ đã hơn 90 tuổi, nhưng có thể hát sử thi cả tuần không nghỉ, dài tới hơn 10 ngàn trang. Sử thi Raglai đã ngấm vào máu, bất kỳ lúc nào cụ cũng có thể hát được những bài sử thi trường thiên như: Amã Jarahĩt (dài 40 băng cassette), Amã Saia Juhia (50 băng), Amã Chơi Pu-òq (58 băng). Người Raglai tại Khánh Sơn có 15 ngàn dân, cụ Diên cũng là người lớn tuổi nhất của dân tộc này còn hát được sử thi.
Người kể sử thi Raglai
Người Raglai có sử thi Akha Jukar, một hình thức hát bằng văn vần để phân biệt với Akha ter, là chuyện kể bằng văn xuôi. Sử thi Raglai nhiều người có thể hát được, nhưng nay họ đã dần khuất núi, chẳng còn mấy người hát thành thạo hoặc hát hay được. Giới trẻ Raglai cũng không còn nhiều hào hứng với thể loại sử thi dân gian.
Phải rất vất vả tôi mới có thể nghe và hiểu được một phần nào sử thi Raglai từ nghệ nhân Mấu Thị Diên, người đã gắn liền với núi rừng gần hết cả cuộc đời. Người trong xã Sơn Bình ai cũng biết cụ Mấu Thị Diên, cụ hát cả ngày cả đêm không biết mệt, không biết chán. Người ta vẫn thường nói vui: “Bà ấy luôn hát như chưa từng được hát bao giờ”.
Dạo quanh thị trấn Tô Hạp, tôi vô tình gặp gỡ ông Phạm Văn Hợp, Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện Khánh Sơn. Ông Hợp cho hay: “Chúng tôi luôn hoan nghênh những ai muốn tìm hiểu văn hóa Raglai, lớp trẻ mà như thế là quý hóa lắm, tuy nhiên muốn nghe hát sử thi thì phải tìm đến nghệ nhân dân gian Mấu Thị Diên, cụ tuy đã lớn tuổi nhưng trí nhớ còn tốt lắm”.
Sử thi Raglai còn nhiều điều bí ẩn, vì có những người tuy biết hát nhưng không bao giờ mở lời, cứ như người không biết. Có lẽ họ im lặng vì muốn giữ lại vốn quý của tổ tiên, phần vì họ không muốn khoe khoang hay chứng tỏ làm gì? Quy luật “tre già măng mọc” luôn được thể hiện rất rõ trong tộc người Raglai, khi những “cây lớn đổ ngã” vì thời gian, thế hệ sau hoặc người trẻ hơn mới cất tiếng kể sử thi như để thông báo với núi rừng, làng bản rằng: đã có thêm một người kể sử thi và họ chính là người hát sử thi kế thừa tiếp theo.
Cụ Mấu Thị Diên luôn ở trong ngôi nhà sàn của mình dù gia đình có nhà xây bằng xi măng. Đã quen với “nếp sống nhà sàn”, với núi rừng gần hết cuộc đời, cụ không còn muốn thay đổi nữa.
Sử thi Raglai vốn là câu chuyện kể về những vị thần như: thần lúa bắp, chúa thần Tuwaq, ngựa thần Danaq..., thể hiện rất sống động cuộc sống của người Raglai với những anh hùng chống xâm lăng, những bài toán nan giải trong việc đánh đuổi giặc thù, như sử thi đã viết: “Đâu thắng được quân của chúa, đợt đi này không thắng được giặc, không tìm ra lối thoát…”.
Điều thú vị phải nói đến chính là, dù những nghệ nhân người Raglai đã lớn tuổi, tiêu biểu nhất là cụ bà Mấu Thị Diên nhưng họ vẫn có thể hát ngày đêm không nghỉ. Được biết, xưa kia, đồng bào Raglai ai cũng có thể hát sử thi, đi làm cũng hát, đi chơi cũng hát, có lẽ vì sống trong một môi trường như vậy, nên những nghệ nhân hát sử thi Raglai ngày nay mới có thể thấm nhuần thẳm sâu trong xương máu đến như thế.
Nỗi niềm nghệ nhân lúc xế chiều
Nghệ nhân Mấu Thị Diên có tất cả 5 người con, những người bạn già cùng tuổi với cụ đều đã khuất bóng. “Tôi cảm thấy có nỗi buồn và đơn độc nhưng còn nhiều con cháu nên cũng đỡ phần nào nhưng nhiều lúc vẫn thấy buồn”, cụ Diên tâm sự. Những người như cụ Diên đang dần trở nên hiếm hoi hơn trong cộng đồng người Raglai.
Trước kia, trên địa bàn Khánh Sơn có bà Tro Thị Ría trú tại Ba Cụm Bắc, vốn là người thuộc những bài dân ca cổ, những sử thi Raglai hết sức độc đáo nhưng các nhà nghiên cứu còn chưa kịp ghi âm hết thì bà Ría đã qua đời. Một kho tàng văn học dân gian Raglai cũng vì thế bị chôn vùi vì con cháu và người thân của bà không ai hát được. Ông Mấu Dũng, người ở Sơn Trung, Khánh Sơn cũng biết nhiều sử thi nhưng nay không còn nữa.
Trong tâm trí bà Mấu Thị Diên, hình ảnh những đêm lễ hội bên ánh lửa bập bùng, thấm đượm hồn người, dưới trời sương lạnh lẽo vẫn in hằn sâu sắc. Hát sử thi rất cần có không gian và thời gian phù hợp, bởi điều đó ảnh hưởng phần nào tới tâm trạng người hát. Cụ đã cố dồn hết mọi tâm huyết của mình để kể và hát sử thi cho những nhà khoa học ghi lại nghiên cứu, tìm hiểu.
Cách đây hơn 20 năm, nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đã phát hiện ra người Raglai có sử thi của riêng mình. Sau đó, các nhà khoa học chính thức vào cuộc để nghiên cứu và lưu giữ văn hóa sử thi Raglai, công việc thực không đơn giản vì ngày ấy đường xa chưa được như bây giờ, cũng như bất đồng ngôn ngữ và lối ăn ở sinh hoạt. Vào thời điểm ấy, người Raglai hát được sử thi cũng chỉ còn được khoảng 10 người thôi. Đến nay, ông Mấu Quốc Tiến, được biết đến là nhà nghiên cứu văn hóa Raglai trung thành nhất đi kèm với đó không ít thành tựu lớn thể hiện qua những sách viết về người Raglai và ông cũng đã học được sử thi Raglai.
“Hát sử thi Raglai không hề đơn giản, vì đã gọi là sử thi thì phải bi tráng, hùng mạnh, toát lên cái thần thế của cả một dân tộc. Nếu không làm được như vậy, coi như hát thất bại”, cụ Diên lưu ý. Có 3 âm điệu phổ biến khi hát sử thi. Đầu tiên là điệu Siri, kéo dài âm ỉ với sự nồng nàn và nhẹ nhàng như đưa người ta vào thế giới của sự bồng bềnh, lãng du. Điệu Adoh, có đặc trưng nhanh và dồn dập thường sử dụng trong những nghi lễ hoặc lúc tụ tập đông người. Cuối cùng là điệu Majeng như lời tâm sự, nói nhỏ với nhau tình cảm.
Cuộc đời cụ Mấu Thị Diên đã trải qua hai chế độ, từ chiến tranh đến hòa bình, cả loạn ly và thống nhất, những bài ca sử thi của người Raglai cũng vì thế ảnh hưởng rất lớn đến sức sống vốn đã trường tồn qua bao đời. Hiện nay đã không còn là thời đại của văn học dân gian truyền miệng, có lẽ vì vậy mà phải mở lớp dạy cũng như ghi âm, viết thành sách để lưu truyền mà thôi. Ngày tháng không đợi ai bao giờ, người như cụ Mấu Thị Diên cũng không còn nhiều, chắc chắn rằng đó là những người nắm giữ “kho báu vật vô giá” trong dân gian.
|
ĐỨC THỌ