Phấn đấu 100% trung tâm y tế huyện đảo có đủ năng lực triển khai các hoạt động phòng chống dịch và tiêm chủng mở rộng; 90% cơ sở y tế huyện đảo, ven biển và ngành kinh tế biển có bác sĩ đủ năng lực cấp cứu, khám chữa bệnh các bệnh lý đặc thù… Đó là một phần trong Đề án phát triển y tế biển, đảo đến 2020 và tầm nhìn đến 2030 của Bộ Y tế (gọi tắt Đề án) với mục tiêu nâng cao công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, ngư dân nơi “đầu sóng ngọn gió”.
Vùng biển nước ta rộng trên 1 triệu km2, đường bờ biển dài 3.620km, có hơn 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ. Hiện có 28 tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương, trong đó có 151 quận, huyện, thị xã, thành phố, 637 xã phường tiếp giáp biển, 65 xã đảo. Dân số 28 tỉnh, thành phố ven biển khoảng 43,9 triệu người, dân số xã, phường tiếp giáp biển khoảng 16,8 triệu người, dân số các huyện đảo khoảng 242.000 người.
Theo Bộ Y tế, hệ thống y tế tổ chức theo quy hoạch chung trong hệ thống y tế quốc gia, nhưng năng lực của các trung tâm y tế, bệnh viện, trạm y tế xã đảo còn hạn chế, các dịch vụ y tế chưa bao phủ hết đối với quân và dân đang sinh sống, làm việc trên biển, đảo. Đồng thời, các cơ sở y tế biển, đảo không đủ khả năng mở rộng phạm vi cứu chữa khi bị chia cắt, hoặc tăng đột biến nhu cầu khám chữa bệnh, thiếu hệ thống vận chuyển cấp cứu hiệu quả trên biển.
Theo Bộ Y tế, đề án phát triển y tế biển, đảo sẽ tạo sự công bằng trong tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản và một số dịch vụ y tế kỹ thuật cao, giúp chăm sóc sức khỏe tốt hơn cho quân, dân đang công tác, sinh sống ở các vùng biển, đảo.
Theo khảo sát của Bộ Y tế, tỷ lệ các thành viên trong một hộ gia đình trên các huyện đảo có ít nhất một bệnh chiếm 70,5%. Bệnh tật liên quan tới nghề nghiệp đặc thù của vùng biển, đảo thường gặp ở nhóm người dân đánh bắt hải sản xa bờ, dân làm nghề lặn khai thác thủy, hải sản, thủy thủ tàu vận tải, người lao động trên các giàn khoan, nuôi trồng thủy, hải sản ven bờ…
Kết quả nghiên cứu của Viện Y học biển tiến hành trong 10 năm qua cho thấy, một số bệnh tật phổ biến ở cư dân vùng biển, đảo là hội chứng rối loạn chuyển hóa (60%-80%), bệnh tim mạch, bệnh rối loạn hành vi và tâm thần, rối loạn thần kinh chức năng… Đặc biệt là các tai biến do lặn biển, tai nạn, bệnh răng miệng (chiếm 37,1%- 48,2%).
Với người dân đánh bắt hải sản xa bờ, một số nghiên cứu cho thấy nhóm ngư dân hành nghề này thường có tỷ lệ mắc các bệnh cao như tim mạch (33,5%), tiêu hóa (35,1%) và bệnh hệ xương khớp (36,1%), viêm đường hô hấp trên, giảm thị lực, bệnh ngoài da, so với tỷ lệ mắc của nhóm cư dân sống trên đất liền.
Theo số liệu điều tra năm 2012 của Viện Chiến lược và chính sách y tế (Bộ Y tế), chỉ có 33,6% trung tâm y tế huyện biển, đảo được xây mới, 31,1% chưa có cơ sở riêng, 35,3% cần xây mới và nhiều trạm y tế xuống cấp trầm trọng. Đáng nói, nguồn nhân lực cơ sở y tế biển, đảo thiếu thốn, chỉ có 46,7% trạm y tế xã đảo có bác sĩ…
Do đó, trước hết cần tăng cường y tế dự phòng cho người dân vùng biển, đảo. Đó là tăng cường truyền thông giáo dục sức khỏe, triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế như phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, tiêm chủng mở rộng, vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống các bệnh truyền nhiễm như sốt xuất huyết, hay các bệnh không lây nhiễm như tim mạch, đái tháo đường…
Theo Bộ Y tế, thời gian thực hiện Đề án đến năm 2020 với kinh phí dự kiến 8.200 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách sự nghiệp 1.000 tỷ đồng, còn lại là vốn trái phiếu chính phủ, vốn đầu tư phát triển, vốn ODA và vốn xã hội hóa.
TƯỜNG LÂM