Bảo đảm các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, các loài và nguồn gene nguy cấp, quý, hiếm được bảo tồn và phát triển bền vững; duy trì và phát triển dịch vụ hệ sinh thái thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm thúc đẩy phát triển bền vững đất nước. Đó là mục tiêu tổng quát của Quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 vừa được Chính phủ phê duyệt.
Bảo tồn theo 8 vùng
Quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học đã xác định và khoanh vùng bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng; nâng cao chất lượng và tăng diện tích các hệ sinh thái tự nhiên được bảo vệ trên phạm vi cả nước; nâng độ che phủ rừng đạt 45%. Theo đó, quy hoạch đến năm 2020 được thực hiện theo 8 vùng địa lý trên phạm vi cả nước theo 4 đối tượng, bao gồm: hệ sinh thái tự nhiên, khu bảo tồn, cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học và hành lang đa dạng sinh học.
Cụ thể, đối với vùng Đông Bắc: bảo vệ các hệ sinh thái rừng tự nhiên lưu vực sông Hồng, sông Lô, sông Gâm; hệ sinh thái núi đá vôi tại Tuyên Quang, Hà Giang, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Cao Bằng, Quảng Ninh; hệ sinh thái đất ngập nước tại Đầm Hà, Yên Hưng (Quảng Ninh). Ngoài bảo vệ các hệ sinh thái trên, tại khu vực này cũng sẽ nâng cấp và thành lập 3 cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học, đó là một trung tâm cứu hộ động vật, một vườn thực vật và một vườn cây thuốc.
Vùng Bắc Trung bộ: bảo vệ hệ sinh thái rừng nguyên sinh tại Nghệ An, Hà Tĩnh; rừng tự nhiên lưu vực sông Mã, sông Cả, sông Gianh; rừng ngập mặn ven biển tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa; hệ sinh thái núi đá vôi ở Thanh Hóa và Quảng Bình; hệ sinh thái đầm phá Tam Giang - Cầu Hai tại Thừa Thiên - Huế.
Vùng Tây Bắc: bảo vệ các hệ sinh thái rừng tự nhiên lưu vực sông Đà, sông Mã; rừng ở các vùng cao trên 1.500m tại Lào Cai, Sơn La.
Đối với vùng đồng bằng sông Hồng: bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn tự nhiên tại Hải Phòng, Thái Bình; các hệ sinh thái đất ngập nước quan trọng tại Ninh Bình, Nam Định.
Vùng Nam Trung bộ: bảo vệ các hệ sinh thái rừng tự nhiên lưu vực sông Cái (thuộc các tỉnh Phú Yên, Ninh Thuận, Khánh Hòa), sông Côn, sông Đà Rằng, sông Ba, sông Trà Khúc, sông Thu Bồn; hệ sinh thái rừng khộp tại Ninh Sơn (Ninh Thuận), Hoàn Giao (Khánh Hòa); các rạn san hô, thảm cỏ biển tại Cù Lao Chàm, vịnh Vĩnh Hy, vịnh Cam Ranh, đầm Thủy Triền, vịnh Vân Phong; hệ sinh thái đất ngập nước khu vực đầm Thị Nại, Trà Ổ, Cù Mông, Ô Loan, Nha Phu.
Vùng Tây Nguyên: bảo vệ hệ sinh thái rừng nguyên sinh, gồm: rừng trên núi trung bình (Ngọc Linh, Chư Yang Sin), rừng nửa rụng lá (rừng bằng lăng), rừng rụng lá cây họ Dầu (rừng khộp); rừng tự nhiên lưu vực sông Sê San, sông Ba, sông Đồng Nai.
Vùng Đông Nam bộ: bảo vệ hệ sinh thái rừng nguyên sinh; các hệ sinh thái rạn san hô, thảm cỏ biển tại Cà Ná, Côn Đảo; hệ sinh thái đất ngập nước tại đầm Thị Nại, rừng ngập mặn Cần Giờ.
Tại vùng đồng bằng sông Cửu Long: bảo vệ và phát triển bền vững 30.000ha hệ sinh thái rừng ngập mặn tự nhiên; hệ sinh thái các rạn san hô, thảm cỏ biển tại Phú Quốc; các hệ sinh thái rừng ngập mặn và hệ sinh thái rừng tràm tại Tràm Chim, U Minh, Trà Sư.
Thành lập mới 46 khu bảo tồn
Giai đoạn từ năm 2016 - 2020, định hướng quy hoạch thành lập mới 46 khu bảo tồn với diện tích khoảng 567.000ha từ quỹ đất tăng thêm từ kiến nghị điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2016 - 2020) cấp quốc gia được Quốc hội thông qua, nâng tổng diện tích hệ thống khu bảo tồn trên phạm vi cả nước đạt khoảng 2.940.000ha. Cụ thể, thành lập 6 khu bảo tồn với tổng diện tích khoảng 81.300 ha tại vùng Đông Bắc; 2 khu bảo tồn với diện tích khoảng 35.000ha tại vùng Tây Bắc; 7 khu bảo tồn với diện tích dự kiến khoảng 63.150ha tại vùng đồng bằng sông Hồng; 7 khu bảo tồn với diện tích khoảng 140.000ha tại vùng Bắc Trung bộ; 8 khu bảo tồn với diện tích khoảng 113.000ha tại vùng Nam Trung bộ; 3 khu bảo tồn với diện tích khoảng 57.100ha tại vùng Tây Nguyên; 4 khu bảo tồn với diện tích khoảng 43.600ha tại vùng Đông Nam bộ; 9 khu bảo tồn với diện tích khoảng 33.500ha tại vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Quy hoạch định hướng đến năm 2030 sẽ xác định các vùng có hệ sinh thái tự nhiên và tiềm năng cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái quan trọng; tiếp tục bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị suy thoái. Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện quy hoạch chi tiết và xây dựng hồ sơ trình cấp có thẩm quyền phê duyệt thành lập và đưa vào hoạt động 20 khu bảo tồn mới với tổng diện tích dự kiến khoảng 128.000ha, nâng tổng số khu bảo tồn đạt 219 khu với tổng diện tích khoảng 3.067.000ha, được phân bố đều trên phạm vi cả nước.
Để thực hiện quy hoạch này, Chính phủ cũng đã đưa ra một số giải pháp: hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý khu bảo tồn, cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học và hành lang đa dạng sinh học; tiêu chí phân hạng, phân loại khu bảo tồn theo hệ sinh thái; thành lập khu bảo tồn, cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học và hành lang đa dạng sinh học; định mức kinh tế - kỹ thuật lập, điều chỉnh quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học. Bên cạnh đó, sẽ xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là cộng đồng địa phương tham gia thực hiện quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học. Mở rộng việc trao đổi, hợp tác khoa học với các nước, đặc biệt là với các nước có chung biên giới để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm về quản lý, bảo vệ các khu bảo tồn, cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học và hành lang đa dạng sinh học.
HÀ PHƯƠNG