Chưa bao giờ các doanh nghiệp thủy sản lâm vào cảnh khốn đốn như hiện nay. Chưa hết 3 tháng đầu năm 2012 nhưng đã có không ít doanh nghiệp thủy sản bắt đầu “ngã ngựa”, nhiều nhà máy chế biến buộc phải giảm công suất hoặc tạm ngưng hoạt động, bởi sản xuất kinh doanh không hiệu quả; một số doanh nghiệp thủy sản lâm vào cảnh nợ chất chồng. Nhiều người lấy làm khó hiểu vì sao một trong những lĩnh vực xuất khẩu chủ lực như thủy sản vừa mang về cho đất nước trên 6,1 tỷ USD vào năm 2011, bỗng nhiên phút chốc lại lâm vào cảnh khốn đốn.
Có lẽ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) hiểu rõ hơn hết. Ông Trần Thiện Hải, Chủ tịch VASEP, đã từng cảnh báo rằng, sau lễ mừng công xuất khẩu thủy sản vượt mốc 6 tỷ USD trong năm 2011, năm 2012 sẽ gặp khó khăn gấp bội; dự báo có ít nhất 20% số doanh nghiệp thủy sản phá sản.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà VASEP tiên liệu như vậy, bởi năm 2012 các ngân hàng tiếp tục siết chặt tín dụng, cộng với nguồn nguyên liệu khan hiếm, thị trường xuất khẩu khó khăn, các khoản chi phí đầu vào tăng…
Nhìn vào sự phát triển nóng của ngành thủy sản thời gian qua, nhiều người trong nghề chẳng thấy mừng mà còn lo thêm. Từ năm 2007 - 2009, các tỉnh thành ĐBSCL ùn ùn chạy đua nhau xây nhà máy chế biến thủy sản (chủ yếu là cá tra và tôm). Chẳng bao lâu toàn vùng đã có trên 190 nhà máy thủy sản, với công suất thiết kế hơn 1,2 triệu tấn/năm. So với năm 2003, số nhà máy tăng gấp 2,3 lần, công suất thiết kế tăng gấp 2,7 lần. Bùng nổ việc xây nhà máy, trong khi thiếu đầu tư phát triển vùng nguyên liệu đã đẩy hàng loạt nhà máy lâm vào cảnh thiếu tôm, cá hoạt động.
Theo Sở NN-PTNT các tỉnh, bình quân các nhà máy thủy sản chỉ chạy khoảng 30% - 50% công suất; thậm chí hiện nay nhiều nhà máy chế biến tôm ở ĐBSCL chỉ chạy 10% - 30% công suất. Đây là một lãng phí lớn của việc đầu tư theo phong trào. Đáng lo ngại hơn là rất nhiều người ngoài ngành, không am hiểu về thủy sản cũng lao vào thu mua, chế biến và xuất khẩu thủy sản. Từ đó dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh như làm hàng kém chất lượng, bán phá giá… gây mất uy tín của thủy sản Việt Nam trên trường quốc tế.
Thực tế cho thấy, nghề nuôi và chế biến thủy sản thời gian qua phát triển quá nhanh. Việc quản lý thủy sản, quản trị doanh nghiệp, hỗ trợ kỹ thuật nuôi, cung ứng vốn, các dịch vụ đi kèm… hầu như chưa đáp ứng kịp tốc độ bùng nổ của ngành thủy sản. Và hậu quả là nhiều doanh nghiệp đã và đang vỡ nợ; nhiều nhà máy đã đóng cửa và số lượng đóng cửa tới đây sẽ tiếp tục tăng, hàng loạt công nhân thủy sản đứng trước cảnh mất việc làm. Trong khi đó, giá tôm sú và cá tra dù duy trì ở mức cao nhưng nhiều hộ đành ngậm ngùi “treo ao hầm” vì kiệt sức, hết vốn, do thua lỗ kéo dài.
VASEP thừa nhận, để đạt kim ngạch xuất khẩu 6,5 tỷ USD trong năm 2012; hướng đến mốc 8 tỷ USD năm 2015; và 10 tỷ USD năm 2020… là một thách thức không nhỏ trong tình hình khó khăn vây bủa. Để ngành thủy sản vượt qua giai đoạn khốc liệt nhất hiện nay, cần mạnh tay “phẫu thuật”, tái cấu trúc toàn bộ từ doanh nghiệp xuất khẩu đến người nuôi, quy hoạch, quản lý… Đồng thời sắp xếp lại chuỗi sản xuất hợp lý, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người nuôi - nhà cung cấp thức ăn - doanh nghiệp chế biến xuất khẩu…
Theo các nhà chuyên môn, đây là thời điểm cần mạnh dạn xóa sổ những doanh nghiệp làm ăn kiểu cơ hội, chụp giựt, theo phong trào. Ngân hàng xem xét khoanh nợ, giãn nợ, tái đầu tư cho những doanh nghiệp làm tốt, có đầu tư chiều sâu, doanh nghiệp có thương hiệu để họ duy trì sản xuất, tạo việc làm cho công nhân và giữ vững thị trường xuất khẩu.
Làm sao cơ quan quản lý nhà nước thật sự là “người đồng hành” với doanh nghiệp và người nuôi, cùng khai thác lợi thế, tiềm năng, chung sức đưa ngành thủy sản tiếp tục phát triển.
HUỲNH PHƯỚC LỢI