Thực hiện đồng bộ các giải pháp để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tiếp tục duy trì phục hồi tăng trưởng theo mục tiêu Quốc hội đề ra

(Báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII do Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng trình bày)

Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các đồng chí lão thành Cách mạng,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa đồng bào, đồng chí và các bạn;

Theo Chương trình của Kỳ họp thứ 7, Chính phủ đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội hai bản báo cáo bổ sung về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2009 và triển khai thực hiện kế hoạch và dự toán ngân sách nhà nước năm 2010 cùng với một số báo cáo chuyên đề khác. Các báo cáo đó đã đề cập toàn diện tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước và những vấn đề cần giải quyết trong quá trình triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội. Trong báo cáo này, thay mặt Chính phủ, tôi xin trình bày thêm một số tình hình của năm 2009, kết quả bước đầu thực hiện nhiệm vụ 2010 và một số giải pháp chủ yếu nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và tiếp tục duy trì phục hồi tăng trưởng theo mục tiêu Quốc hội đã đề ra.

I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2009

Tại Kỳ họp thứ 6 của Quốc hội, Chính phủ đã báo cáo về ước thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2009 trên cơ sở các số liệu thực tế 9 tháng đầu năm và dự báo các tháng cuối năm. Đến nay, qua số liệu thực tế cả năm, Chính phủ xin báo cáo bổ sung như sau:

A. Những kết quả đạt được

1. Về thực hiện mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng hợp lý, bền vững

Do kinh tế thế giới đang dần được phục hồi và sự tác động tích cực của các chính sách kích thích kinh tế, hỗ trợ sản xuất, tiêu dùng và phát triển thị trường trong nước nên kinh tế nước ta phục hồi và phát triển khá nhanh. GDP quý IV/2009 tăng 6,99%, đưa tốc độ cả năm lên 5,32%, cao hơn số đã báo cáo Quốc hội (5,2%), trong đó, công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%, nông nghiệp tăng 1,83% và dịch vụ tăng 6,63%.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 708,8 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 15% so với năm 2008 và bằng 42,7% GDP. Trong đó, vốn FDI đăng ký đạt 22,6 tỷ USD, số vốn thực hiện đạt khoảng 10 tỷ USD; vốn ODA cam kết trên 8 tỷ USD. Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, việc Việt Nam tiếp tục thu hút được lượng vốn nước ngoài khá lớn đã thể hiện niềm tin của cộng đồng quốc tế vào tiềm năng phát triển và môi trường đầu tư của nước ta.

2. Về thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, chủ động ngăn ngừa lạm phát cao trở lại

Mặc dù phải giảm một số khoản thuế để thực hiện chính sách kích thích kinh tế, nhưng do sớm ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế và quản lý chặt chẽ các nguồn thu nên tổng thu ngân sách nhà nước năm 2009 vẫn vượt 13,4% so với dự toán và tăng khoảng 51,69 nghìn tỷ đồng so với số đã báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6. Dư nợ Chính phủ và dư nợ quốc gia nằm trong giới hạn an toàn.

Xuất khẩu tăng mạnh trong quý IV đã đưa tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 57,1 tỷ USD, cao hơn mức đã báo cáo Quốc hội tại kỳ họp trước. Giá hàng xuất khẩu giảm vẫn là nguyên nhân chủ yếu làm giảm kim ngạch xuất khẩu. Ngoài ra, việc để lại dầu thô trong nước sử dụng cho nhà máy lọc dầu Dung Quất cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến kim ngạch xuất khẩu.

Các giải pháp điều hành chính sách tài chính, tiền tệ chủ động, linh hoạt cùng với việc phục hồi sản xuất kinh doanh, nhất là những tháng cuối năm đã góp phần kìm giữ mức lạm phát cả năm 2009 là 6,52%. Các mặt hàng xăng dầu, điện, than được chuyển sang cơ chế giá thị trường theo lộ trình, không gây xáo trộn lớn. Hệ thống ngân hàng cơ bản giữ được ổn định; thị trường chứng khoán có bước phục hồi.

3. Về thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội

Để góp phần giảm bớt khó khăn về đời sống của nhân dân do tác động của suy giảm kinh tế và thiên tai, dịch bệnh, Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp nhằm bảo đảm an sinh xã hội: điều chỉnh tiền lương, trợ cấp xã hội và trợ cấp cho người có công; hỗ trợ lao động mất việc làm; quan tâm chăm lo cho người nghèo, các đối tượng chính sách, những vùng khó khăn. Năm 2009, nước ta chịu ảnh hưởng của 11 cơn bão và nhiều đợt lũ lụt lớn gây thiệt hại ước tính 23,2 nghìn tỷ đồng, gần gấp 2 lần năm 2008, nhưng nhờ triển khai tích cực công tác cứu hộ, cứu trợ nên đã hạn chế tối đa thiệt hại về người và của cải, nhanh chóng phục hồi sản xuất và đời sống, không để thiếu đói và bệnh dịch lây lan. Ngân sách trung ương đã chi trên 4.250 tỷ đồng và cấp không thu tiền 64.000 tấn gạo cho dân để cứu trợ, khắc phục hậu quả thiên tai. Tổng số hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở là 157.735 căn, trong đó đã tập trung đầu tư ở 62 huyện nghèo là 63.365 căn, cho đồng bào Khơme Tây Nam Bộ là 21.082 căn. Đã hỗ trợ 1.882 tỷ đồng và đưa gần 1.000 lao động của 62 huyện nghèo đi làm việc ở nước ngoài. Hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn 1.827 tỷ đồng. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm xuống còn khoảng 11%.

Trong điều kiện nền kinh tế gặp khó khăn, các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao, khoa học công nghệ và môi trường tiếp tục có bước phát triển. Kế hoạch tổ chức các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn, hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long đã và đang được tích cực triển khai. Công tác đối ngoại, an ninh quốc phòng, trật tự xã hội, cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng được quan tâm chỉ đạo và có một số chuyển biến tốt.

B. Những tồn tại, yếu kém chủ yếu

1. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 thấp nhất trong 10 năm gần đây. Công nghiệp và xây dựng tuy đã vượt qua giai đoạn khó khăn, trì trệ nhưng tăng trưởng vẫn ở mức thấp (5,52%), bằng khoảng 2/3 mức tăng trưởng bình quân thời kỳ 2000 - 2007. Năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa, của doanh nghiệp và của nền kinh tế còn thấp. 

2. Tổng kim ngạch xuất khẩu tuy những tháng cuối năm có tăng khá hơn, nhưng tính chung cả năm vẫn giảm so với năm trước. Nhập siêu năm 2009 bằng khoảng 22,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, tuy chỉ bằng 3/4 mức nhập siêu của năm 2008 (28,8%), nhưng vẫn là mức khá cao và đây cũng là nguyên nhân chính làm thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể. 

Tổng phương tiện thanh toán cả năm tăng khoảng 27%, tổng dư nợ tín dụng tăng khoảng 38%, trong đó tín dụng bằng VNĐ tăng khoảng 43%. Tiền tệ, tín dụng tăng cao cùng với thâm hụt ngân sách lớn (do phải miễn giảm thuế và tăng chi để thực hiện chính sách kích thích kinh tế) một mặt đã góp phần ngăn chặn có kết quả đà suy giảm kinh tế trong năm 2009, nhưng mặt khác cũng gây áp lực lớn lên mặt bằng giá, cùng với giá nguyên nhiên vật liệu, máy móc nhập khẩu tăng lên có thể dẫn đến lạm phát cao trong năm 2010.

3. Chất lượng nguồn nhân lực thấp; chất lượng công tác giáo dục đào tạo chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Tốc độ tăng tuyển mới đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp không đạt kế hoạch. Công tác quản lý nhà nước, nhất là công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc tuân thủ các quy định pháp luật trong việc thành lập trường, đầu tư, cho phép đào tạo và đánh giá, kiểm định, bảo đảm chất lượng giáo dục, nhất là cấp đại học, còn nhiều yếu kém (Vấn đề này vừa qua đã được Quốc hội tổ chức giám sát chuyên đề và có báo cáo cụ thể tại Kỳ họp này). Tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt khoảng 38,5%; đây là nguyên nhân chính hạn chế năng suất lao động xã hội, cản trở việc phát triển những ngành nghề trong nước cũng như mở rộng những thị trường xuất khẩu đòi hỏi lao động có kỹ thuật cao.

Công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất và đời sống triển khai chậm. Chưa xây dựng được các sản phẩm trọng điểm quốc gia phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng an ninh. Việc đổi mới chính sách sử dụng cán bộ và cơ chế quản lý tài chính cho hoạt động khoa học, công nghệ triển khai chậm.

4. Do nguồn lực có hạn và những thiếu sót, bất cập trong khâu tổ chức thực hiện nên việc bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội còn nhiều khó khăn. Chỉ tiêu tạo việc làm chỉ đạt 89% kế hoạch, xuất khẩu lao động đạt 81% kế hoạch. Công tác quản lý lao động, nhất là lao động nước ngoài còn hạn chế. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh nhưng chưa đồng đều giữa các vùng và chưa vững chắc, nguy cơ tái nghèo cao. Tình trạng xâm hại trẻ em vẫn xẩy ra ở nhiều nơi. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân chưa được cải thiện nhiều; việc phòng, chống dịch bệnh, nhất là sốt xuất huyết hiệu quả chưa cao; quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều thiếu sót.

5. Công tác bảo vệ và khắc phục ô nhiễm môi trường chuyển biến chậm. Yêu cầu bảo vệ môi trường chưa được tuân thủ nghiêm ngặt trong quá trình phê duyệt và triển khai một số công trình, dự án đầu tư. Nhiều địa phương chưa quán triệt chủ trương phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường, chưa quan tâm đúng mức công tác kiểm tra, giám sát và xử lý kiên quyết các hành vi gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt tại các khu công nghiệp, các làng nghề. Nạn chặt phá và cháy rừng chưa được ngăn chặn hiệu quả. Có 4 trong 8 chỉ tiêu về môi trường không đạt kế hoạch đã đề ra.

Tính chung, trong số 25 chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu, có 17 chỉ tiêu đạt cao hơn mức đã trình Quốc hội, còn 8 chỉ tiêu không đạt kế hoạch đề ra.

Đánh giá tổng quát: Năm 2009 là năm khó khăn nhất trong 10 năm gần đây, nhưng nhờ sự nỗ lực chung của Đảng, Nhà nước, nhân dân và sự giám sát của Quốc hội, chúng ta đã vượt qua khó khăn thử thách, sớm ngăn chặn được đà suy giảm kinh tế và đạt tốc độ tăng trưởng khá, đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội. Các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao, khoa học công nghệ và môi trường tiếp tục có bước phát triển tích cực trong điều kiện nền kinh tế khó khăn. Tuy vậy, vẫn còn một số tồn tại và yếu kém cần tiếp tục khắc phục như chất lượng tăng trưởng thấp, kim ngạch xuất khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm, cán cân thanh toán tổng thể bị thâm hụt, tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao trở lại tác động tiêu cực đến ổn định vĩ mô, chất lượng nhân lực còn kém, kết quả tạo việc làm còn hạn chế, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân chưa được cải thiện nhiều, quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm chưa tốt, công tác bảo vệ và khắc phục ô nhiễm môi trường chuyển biến chậm.


II. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ NHIỆM VỤ NĂM 2010

Những dự báo của các tổ chức tài chính quốc tế và của các nước cho thấy giai đoạn khó khăn nhất của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đã qua, song sự phục hồi vẫn chưa vững chắc. Ở trong nước, những kết quả năm 2009 đã tạo đà thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2010; tuy nhiên, cũng đã xuất hiện một số nhân tố mới có thể gây mất ổn định kinh tế vĩ mô, làm chậm đà phục hồi tăng trưởng, đòi hỏi phải theo dõi chặt chẽ và phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả.  

Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã khẩn trương triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2010; đã ban hành Nghị quyết số 03 ngày 15 tháng 01 năm 2010 về các giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch và ngân sách năm 2010 và Nghị quyết số 18 ngày 06 tháng 4 năm 2010 về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.

A. Tình hình kinh tế - xã hội những tháng đầu năm 2010 đã có những chuyển biến tích cực

1. Nền kinh tế tiếp tục đà phục hồi, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt cao hơn so với quý I/2009 và của cả năm 2009 (tốc độ tăng GDP quý I/2010 là 5,83%; quý I/2009 là 3,14%; cả năm 2009 là 5,32%). Cả 3 khu vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ đều có những chuyển biến tích cực. Giá trị sản xuất công nghiệp quý I tăng 13,6%, gấp nhiều lần so với quý I/2009 (2,1%) và cao hơn kế hoạch năm đề ra là 12%; giá trị sản xuất ngành xây dựng (theo giá thực tế) tăng 17,4%; giá trị sản xuất ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,8%; giá trị tăng thêm khu vực dịch vụ tăng 6,64%.

2. Thị trường trong nước ngày càng mở rộng, bảo đảm cung ứng hàng hóa dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế, không để xẩy ra tình trạng thiếu hàng, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ 4 tháng đầu năm tăng khoảng 26,5% so với cùng kỳ năm trước; nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì vẫn còn tăng 16,4%. Kim ngạch xuất khẩu tăng 8,9% so với cùng kỳ năm 2009. Hoạt động du lịch sôi động, 4 tháng đầu năm số lượng khách du lịch tăng 35,7% so với cùng kỳ năm 2009; đặc biệt, lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong quý I tăng 36,2%, riêng trong tháng 3 tăng 56%. 

3. Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước 4 tháng đầu năm đạt gần 159 nghìn tỷ đồng, bằng 34,4% dự toán cả năm và tăng 12,8% so với cùng kỳ năm 2009; trong đó, thu nội địa đạt hơn 102 nghìn tỷ đồng, bằng 34,6% dự toán cả năm và tăng 11,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ chi của Nhà nước cơ bản được bảo đảm. 

4. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội quý I tăng 26,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, khu vực ngoài nhà nước tăng tới 48,4%. Bốn tháng đầu năm giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ đạt 26% kế hoạch cả năm, nhiều công trình trọng điểm đã hoàn thành, đưa vào sử dụng, tăng đáng kể năng lực sản xuất và phục vụ cho nền kinh tế.

5. Các chính sách an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm thực hiện, góp phần ổn định đời sống nhân dân và từng bước cải thiện phúc lợi xã hội. Đã điều chỉnh nâng gấp rưỡi mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho các đối tượng hưởng chính sách bảo trợ xã hội. Tổ chức chăm lo, phục vụ Tết Nguyên đán Canh Dần 2010 an toàn, vui tươi lành mạnh. Đã hỗ trợ hơn 40 nghìn tấn gạo cho 16 tỉnh, bảo đảm không để người dân bị đói giáp hạt; tặng quà cho gần 2 triệu người có công; tổ chức thăm và tặng quà cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em nghèo. Từ 01/01/2010, điều chỉnh nâng mức lương tối thiểu theo vùng áp dụng cho khu vực doanh nghiệp; từ 01/5/2010, điều chỉnh nâng mức lương tối thiểu chung áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang từ 650.000 lên 730.000 đồng/tháng. Đã triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động. Nhiều mặt hàng nông sản, thực phẩm được mùa, được giá; sức mua và đời sống nông dân có bước cải thiện. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân và phòng chống các dịch bệnh được tăng cường. Đã có 70 bệnh viện tuyến huyện và nhiều trường học, nhà công vụ, ký túc xá được xây dựng mới bằng vốn trái phiếu Chính phủ đã hoàn thành đưa vào sử dụng.

Các hoạt động văn hóa, thông tin tuyên truyền, kỷ niệm các ngày lễ lớn đã được tổ chức tốt, tạo thêm niềm tin và phấn khởi trong nhân dân. Các lĩnh vực xã hội khác đều phát triển ổn định và có những chuyển biến tích cực. Đã tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số lần thứ nhất, biểu dương sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

6. Công tác cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng thu được một số kết quả tích cực. Các cấp, các ngành đã triển khai quyết liệt giai đoạn 2 của Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính; đến nay đã hoàn thành việc rà soát 5.565 thủ tục hành chính, trong đó, kiến nghị bãi bỏ 453 thủ tục, sửa đổi 3.749 thủ tục và thay thế 288 thủ tục. Như vậy, có khoảng 81% các thủ tục hành chính hiện hành sẽ phải sửa đổi theo hướng thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp, nhưng vẫn bảo đảm được hiệu quả và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nhiều ngành và địa phương đang khẩn trương chuyển sang thực hiện giai đoạn 3 Đề án 30.

Cơ chế một cửa, một cửa liên thông và việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước ngày càng hiệu quả. Từ đầu năm đến nay, Chính phủ tổ chức nhiều buổi làm việc trực tuyến với các Bộ, ngành, địa phương và các tập đoàn, tổng công ty nhà nước để triển khai các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội. Đã ban hành Quy chế phối hợp giữa Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Chính phủ với Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Việc rà soát, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của các đơn vị trực thuộc bộ, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện tiếp tục được thực hiện.

Chính phủ đã và đang triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng. Hầu hết các địa phương đều đã hoàn thành việc xây dựng kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia về phòng chống tham nhũng.

7. Công tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại tiếp tục được đẩy mạnh. Tình hình chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Thành công của các chuyến thăm cấp cao của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta cũng như đón tiếp các đoàn quốc tế trong những tháng đầu năm nay đã thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam với các nước, trong đó có các đối tác hàng đầu và nhiều đối tác tiềm năng, đồng thời nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam. Công tác biên giới lãnh thổ được chú trọng; đã triển khai đồng bộ các biện pháp để bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia và bảo vệ ngư dân đánh bắt hải sản trên biển.

Với vai trò chủ tịch ASEAN 2010, chúng ta đã chủ động thực hiện đồng bộ các biện pháp thúc đẩy hợp tác nội khối và giữa ASEAN với các đối tác. Tháng 4 vừa qua đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN 16 và tổ chức cuộc gặp lần đầu tiên giữa lãnh đạo ASEAN với đại diện Đại hội đồng liên nghị viện các nước ASEAN nhằm thúc đẩy sự phối hợp giữa ngành hành pháp với lập pháp trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Lãnh đạo các nước cũng đã nhất trí sẽ tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng theo công thức ASEAN+8 tại Việt Nam vào cuối năm nay.

B. Về những tồn tại, yếu kém

1. Xuất khẩu từ tháng 4 đến nay đã bắt đầu tăng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Các biện pháp quản lý nhập khẩu thiếu đồng bộ và hiệu quả thấp; nhiều loại vật tư, thiết bị, công nghệ và hàng tiêu dùng trong nước có khả năng đáp ứng được nhu cầu nhưng vẫn nhập khẩu với số lượng lớn. Một số nguồn thu ngoại tệ gần đây đã tăng lên, nhưng do nhập siêu lớn nên cán cân thanh toán tổng thể vẫn còn khó khăn. 

2. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong 4 tháng đầu năm tăng 4,27% so với tháng 12/2009, cao hơn so với cùng kỳ một số năm gần đây. Trong đó, đáng chú ý là giá lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng, dịch vụ giao thông tăng khá cao, đặc biệt là trong dịp Tết; 4 tháng đầu năm, giá vàng tăng 41,6% so 4 tháng đầu 2009. 

3. Lãi suất ngân hàng, sau khi Nhà nước dừng các khoản hỗ trợ, đang đứng ở mức cao (tuy gần đây đã có chiều hướng giảm) đã hạn chế khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hệ thống các định chế tài chính (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm) chưa thật lành mạnh, tính công khai, minh bạch thấp, còn tiềm ẩn rủi ro. 

4. Huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội và bù đắp bội chi ngân sách gặp khó khăn. Tăng trưởng tín dụng thấp, chưa đáp ứng nhu cầu hợp lý của các doanh nghiệp và mục tiêu phục hồi tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản phát triển chưa vững chắc.

5. Hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp chưa được cải thiện nhiều. Công tác quản lý các doanh nghiệp nhà nước, các ngân hàng thương mại cổ phần và các tổ chức kinh doanh các ngành nghề có điều kiện còn nhiều bất cập. Vai trò chủ đạo và điều tiết thị trường của một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước có nơi, có lúc làm chưa tốt; sử dụng vốn, tài sản và đất đai còn lãng phí. Các Hiệp hội doanh nghiệp chưa phát huy đầy đủ vai trò của mình trong việc hạn chế tình trạng ép giá thu mua, hạ giá xuất khẩu gây thua thiệt cho người sản xuất. 

6. Chỉ đạo, điều hành vĩ mô của Chính phủ vẫn còn những hạn chế, tồn tại, nhất là trong xây dựng thể chế, triển khai, kiểm tra thực hiện các chính sách và trong điều hoà, phối hợp giữa các ngành, các cấp; vẫn còn 24 nghị định hướng dẫn thực hiện các luật và pháp lệnh chưa được ban hành. Phản ứng chính sách trong quản lý thị trường ngoại hối, thị trường vàng, thị trường bất động sản còn lúng túng và chậm; quản lý, điều hành giá một số mặt hàng chưa thật linh hoạt. Việc xử lý những vấn đề xã hội bức xúc như nạn chặt phá và cháy rừng, lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, tai nạn và ùn tắc giao thông, chất lượng giáo dục và khám chữa bệnh,... hiệu quả chưa cao.         

7. Công tác thông tin tuyên truyền nhằm tạo sự đồng thuận của xã hội có nơi, có lúc chưa tốt, chưa hiệu quả. Việc phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các cơ quan báo chí để cung cấp thông tin minh bạch, chính xác, kịp thời tới công chúng chưa được chặt chẽ, thường xuyên. Một số cơ quan báo chí đăng tải những thông tin không chính xác, thiếu cân nhắc kỹ các tác động xã hội, đã có ảnh hưởng không tốt đến tâm lý xã hội. 

Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội các tháng đầu năm 2010 tiếp tục có những chuyển biến tích cực trên hầu hết các lĩnh vực và các địa bàn trọng điểm; an sinh xã hội được bảo đảm; lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát. Tuy nhiên, tình hình kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định; nhiều khó khăn, thách thức mới nảy sinh đòi hỏi phải tiếp tục có sự nỗ lực cao của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và của toàn dân để thực hiện thắng lợi các mục tiêu kế hoạch đề ra cho năm 2010.

III. TRỌNG TÂM CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH NHẰM HOÀN THÀNH THẮNG LỢI NHIỆM VỤ KẾ HOẠCH NĂM 2010

Xuất phát từ những kết quả đã đạt được trong những tháng vừa qua, nhất là từ đầu tháng tư đến nay và những triển vọng phục hồi kinh tế trong nước cũng như ngoài nước sắp tới, Chính phủ đề nghị tiếp tục kiên định các mục tiêu và chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch cả năm 2010 mà Quốc hội đã đề ra. Để đạt được các kết quả đó, cần triển khai quyết liệt các giải pháp đã nêu trong Kết luận của Bộ Chính trị, các Nghị quyết của Quốc hội và của Chính phủ về nhiệm vụ năm 2010. Tôi xin nhấn mạnh một số trọng tâm công tác từ nay đến hết năm như sau:

1. Nhiệm vụ hàng đầu là thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, góp phần phục hồi tăng trưởng kinh tế  vững chắc

Tập trung triển khai quyết liệt và có hiệu quả Nghị quyết số 18 của Chính phủ về những giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm sự phục hồi tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng theo nguyên tắc thị trường và thông lệ quốc tế để bảo đảm tốc độ tăng dư nợ tín dụng và tổng phương tiện thanh toán ở mức hợp lý, phù hợp với mục tiêu phát triển và yêu cầu kiềm chế lạm phát. Triển khai cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả theo Nghị quyết của Quốc hội. Áp dụng các biện pháp kinh tế, trước hết là các công cụ chính sách tiền tệ như lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, thị trường mở,... để giảm dần mặt bằng lãi suất. Bảo đảm tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng năm 2010 khoảng 25% và tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 20% so với năm 2009.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách để đảm bảo hoạt động của hệ thống ngân hàng công khai, minh bạch, an toàn, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện của nước ta. Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm,... nhằm cảnh báo sớm và xử lý kịp thời các rủi ro, bất ổn của thị trường tài chính. Điều hành thị trường ngoại hối và chính sách tỷ giá linh hoạt trong mối quan hệ với lãi suất, giá tiêu dùng, cán cân thương mại và các kênh đầu tư khác theo hướng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán và tạo điều kiện tăng dự trữ ngoại hối. Tăng cường theo dõi, phân tích, đánh giá và dự báo luồng vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài để tiếp tục thu hút vốn và kiểm soát được các luồng vốn vào - ra.

Tổ chức tốt việc theo dõi diễn biến thị trường hàng hoá và dịch vụ trong và ngoài nước, trước hết là các mặt hàng thiết yếu như gạo, đường, thuốc chữa bệnh, sữa, thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu, xi măng, thép…, để có các giải pháp điều tiết phù hợp, can thiệp kịp thời, không để xảy ra tình trạng thiếu hàng, sốt giá, tăng giá không hợp lý. Đẩy mạnh khai thác và phát triển thị trường nội địa. Tổ chức tốt mạng lưới phân phối hàng hóa đồng bộ từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, từ thành phố đến nông thôn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Mở rộng phương thức hợp đồng bao tiêu sản phẩm, nhằm bảo đảm ổn định việc làm và thu nhập cho người sản xuất, nhất là các hộ nông dân, thợ thủ công.

Kiểm soát các chi phí kinh doanh, giá thành các loại sản phẩm thuộc diện bình ổn giá. Ủy ban nhân dân các cấp, trước hết là hai thành phố lớn Hà Nội, Hồ Chí Minh, chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định về lưu thông hàng hóa, về đăng ký giá, kê khai, niêm yết và bán theo giá niêm yết; xử lý nghiêm các trường hợp đầu cơ và vi phạm các quy định về quản lý giá. Trong năm 2010, giữ ổn định giá bán than cho ngành điện và giá bán điện cho các đối tượng sử dụng điện; sử dụng linh hoạt, hiệu quả quỹ bình ổn giá và các công cụ khác để điều hành giá xăng dầu theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tiếp tục hỗ trợ một số đối tượng gặp khó khăn tạm thời khi phải chuyển sang giá thị trường. 

Tăng cường công tác xúc tiến thương mại. Ban hành chính sách khuyến khích xuất khẩu, phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp sản xuất hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu. Tiếp tục đơn giản hóa các thủ tục hải quan để rút ngắn thời gian thông quan và giảm chi phí đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Phối hợp chặt chẽ giữa các ngành liên quan trong việc sử dụng linh hoạt các giải pháp tổng hợp, các công cụ thuế, phí, lệ phí và phi thuế để đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, giảm nhập siêu. Các công trình, dự án sử dụng vốn của Nhà nước, vốn của các doanh nghiệp nhà nước và mua sắm của các đơn vị hành chính, sự nghiệp có sử dụng kinh phí của ngân sách nhà nước phải ưu tiên mua các vật tư, thiết bị, công nghệ, dịch vụ và hàng hóa sản xuất trong nước.

2. Đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, đầu tư, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 6,5%

Các ngành, các cấp cần tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh, bảo đảm cân đối các mặt hàng thiết yếu. Các tập đoàn Điện lực, Dầu khí, Than và Khoáng sản huy động tối đa công suất các nhà máy điện, kể cả các nguồn điện có giá thành cao và nguồn nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện mùa khô. Thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp tiết kiệm điện trong sản xuất và tiêu dùng. Vận hành an toàn nhà máy lọc dầu Dung Quất. Tiếp tục thực hiện hỗ trợ lãi suất tín dụng để tiêu thụ máy móc, thiết bị, vật tư sản xuất trong nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ viễn thông, vận tải. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch nội địa và du lịch quốc tế; phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đón 4,2 triệu khách quốc tế trong năm 2010.

Tổ chức quản lý chặt chẽ các nguồn thu ngân sách nhà nước; phấn đấu tăng thu vượt dự toán đã được Quốc hội giao để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu cần thiết và giảm bội chi ngân sách nhà nước. Tổ chức phát hành các loại trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp đã ghi trong kế hoạch; đồng thời, nghiên cứu việc phát hành công trái để huy động vốn từ các tầng lớp dân cư. Tăng cường quản lý, đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả các khoản chi ngân sách nhà nước. Các Bộ, cơ quan, địa phương và đơn vị thực hiện triệt để tiết kiệm chi; rà soát lại các công trình, dự án đầu tư và các khoản chi thường xuyên, kiên quyết đình hoãn hoặc cắt giảm các công trình, các khoản chi chưa thật sự cần thiết.

Tiếp tục sắp xếp và đổi mới quản lý để nâng cao hiệu quả các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước; đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa theo kế hoạch. Đối với các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối, khẩn trương thoái vốn để có nguồn thực hiện các mục đích sử dụng theo quy định. Đổi mới cơ chế hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng, phát huy vai trò hỗ trợ hợp tác trong kinh tế thị trường.

Rà soát và tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về đầu tư và sử dụng vốn đối với các thành phần kinh tế. Thí điểm cơ chế hợp tác đầu tư giữa Nhà nước và tư nhân. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư; xác định các danh mục đầu tư để kêu gọi, thu hút vốn đầu tư theo các hình thức thích hợp. Các Bộ, cơ quan và địa phương triển khai quyết liệt kế hoạch đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, tín dụng phát triển; bố trí đủ vốn cho các công trình, dự án hoàn thành trong năm 2010, đặc biệt là các công trình về điện năng, viễn thông, hạ tầng giao thông, thuỷ lợi, các công trình phục vụ Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

Tổ chức các đoàn kiểm tra đầu tư xây dựng cơ bản thuộc nguồn vốn của Nhà nước. Duy trì và nâng cao chất lượng việc giao ban hàng tháng về sản xuất và đầu tư, tháo gỡ khó khăn vướng mắc để huy động, đẩy nhanh tiến độ giải ngân và nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.

3. Triển khai mạnh mẽ Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn

Tổ chức thực hiện tốt các chính sách, chương trình, dự án về nông nghiệp, nông thôn, trong đó có các chương trình xây dựng nông thôn mới; giảm tổn thất sau thu hoạch; giống cây trồng, vật nuôi; khuyến nông; đào tạo nghề cho lao động nông thôn; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và chính sách an ninh lương thực, bảo đảm cho người sản xuất lúa có lãi bình quân hàng năm tối thiểu 30% so với giá thành sản xuất. Chính phủ chỉ đạo xây dựng đề án đổi mới mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh nông sản hàng hóa, trước hết ở đồng bằng Sông Hồng và Sông Cửu Long, các vùng chuyên canh lớn, bảo đảm gắn kết chặt chẽ, hài hoà lợi ích của người sản xuất, chế biến và tiêu thụ, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ để nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của hàng hóa.

Tổ chức thực hiện đồng bộ các chính sách, biện pháp trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất. Hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm, chuyển đổi ngành nghề, nhất là đối với các hộ nông dân có đất bị thu hồi. Tập trung chỉ đạo quyết liệt các biện pháp phòng chống thiên tai, dịch bệnh, cháy rừng. Chủ động sử dụng quỹ dự phòng thiên tai, dịch bệnh và huy động các nguồn lực của xã hội, nhanh chóng phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân; không để dịch bệnh lây lan trên diện rộng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm ngay từ khâu sản xuất. Tổ chức tốt việc tiêu thụ nông sản, thực phẩm, nhất là lúa và cà phê, thuỷ sản.

Khẩn trương triển khai thực hiện Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; đẩy mạnh thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Gắn chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo với chương trình xây dựng nông thôn mới và chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

4. Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững

Tiếp tục thực hiện tốt các chủ trương, chính sách và giải pháp đã được đề ra từ đầu năm về phát triển khoa học, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội, môi trường, phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu kế hoạch năm 2010. Triển khai các giải pháp khắc phục những tồn tại, yếu kém được đề cập trong báo cáo kết quả giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giáo dục đại học; xây dựng quy hoạch phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2020. Tăng cường quản lý nhà nước về các hoạt động văn hóa, lễ hội; tổ chức tốt các ngày lễ lớn, trong đó có Đại lễ Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

Xây dựng Chiến lược an sinh xã hội đến năm 2020 và triển khai thực hiện hệ thống an sinh xã hội đối với dân cư nông thôn thời kỳ 2011 - 2020; Tổng kết các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 và xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 - 2015 theo hướng tăng cường các hình thức hỗ trợ vốn tín dụng và kỹ thuật cho người nghèo, thu gọn các đầu mối quản lý và tăng cường phối hợp các chính sách, chương trình. Ban hành chuẩn nghèo mới cho giai đoạn 2011 - 2015. Tập trung chỉ đạo thực hiện chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo. Chính phủ đánh giá cao Báo cáo kết quả giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thực hiện xóa đói giảm nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn. Chính phủ sẽ nghiêm túc nghiên cứu các đề xuất, kiến nghị của Đoàn giám sát, tổ chức lồng ghép các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo trên cùng một địa bàn, nhằm tránh lãng phí và đạt được hiệu quả cao nhất. Tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm giai đoạn 2006 - 2010, xây dựng chương trình mới cho giai đoạn tiếp theo. Tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, hỗ trợ cho người lao động bị mất việc làm và thúc đẩy hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.

Tổ chức sơ kết 3 năm (2008 - 2010) thực hiện cải cách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý tài chính các hoạt động sự nghiệp dịch vụ công lập. Mở rộng phạm vi đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Đa dạng hóa các loại hình trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội. Triển khai thực hiện đề án phát triển nghề công tác xã hội; tăng cường các hoạt động bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Hoàn chỉnh các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Bảo vệ người tiêu dùng sau khi được Quốc hội thông qua.

Tiếp tục thực hiện quyết liệt các giải pháp nhằm làm giảm tình trạng quá tải của các bệnh viện; giảm số vụ và số người chết, bị thương do tai nạn giao thông, tai nạn lao động, thiên tai và dịch bệnh. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, kiên quyết xử lý các trường hợp gây ô nhiễm, hủy hoại môi trường.

5. Tăng cường công tác quốc phòng, an ninh và đối ngoại, tạo môi trường hoà bình, hữu nghị, hợp tác phục vụ phát triển đất nước

Tăng cường tiềm lực quốc phòng, giữ vững chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Triển khai khẩn trương công tác phân giới cắm mốc theo các cam kết đã ký với các nước láng giềng. Kiên trì đàm phán hoà bình để giải quyết tranh chấp chủ quyền trên biển Đông trên cơ sở Tuyên bố về cách ứng xử trên biển Đông (DOC) và pháp luật quốc tế. Cải thiện điều kiện sinh hoạt cho bộ đội và nhân dân trên các đảo và công tác hậu cần kỹ thuật phục vụ các hoạt động kinh tế, bảo vệ an ninh và nghiên cứu khoa học trên biển.

Bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho các sự kiện quan trọng, nhất là các ngày lễ lớn của dân tộc và Đại hội Đảng các cấp. Làm tốt công tác tôn giáo, dân tộc. Đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Tăng cường kiểm tra trách nhiệm của các Bộ, ngành và chính quyền các cấp trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và xem xét xử lý kịp thời, hiệu quả những bức xúc của người dân và doanh nghiệp.

Tiếp tục đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng; triển khai thực hiện đưa nội dung phòng chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo; tiến hành đối thoại, tổ chức khảo sát về phòng chống tham nhũng trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh cuộc vận động thực hành triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, trước hết là trong sử dụng năng lượng, nước, tài nguyên, khoáng sản, tiền vốn và tài sản của Nhà nước, của doanh nghiệp và của người dân.

Chủ động triển khai các hoạt động ngoại giao đa phương, song phương, xây dựng và triển khai các chương trình, đề án hợp tác thiết thực, chú trọng đẩy mạnh hoạt động ngoại giao kinh tế để đưa quan hệ với các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, các nước lớn và các nước bạn bè truyền thống đi vào chiều sâu; thúc đẩy hợp tác với các đối tác tiềm năng ở khu vực. Chủ động triển khai các hoạt động nhằm đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng nghị viện các nước Đông Nam Á. Tổ chức tốt Diễn đàn kinh tế Đông Á (tháng 6) và Hội nghị cấp cao ASEAN 17  (tháng 10). Tiến hành tổng kết 3 năm gia nhập WTO nhằm thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, bền vững và hiệu quả hơn. Tiếp tục triển khai thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào ta ở nước ngoài; tổ chức tốt Đại hội người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới.

6. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực điều hành

Triển khai quyết liệt các phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính đã được thông qua. Chính phủ hoan nghênh chương trình giám sát của Quốc hội về công tác đơn giản hóa thủ tục hành chính trong năm 2010. Tổ chức tổng kết Chương trình cải cách hành chính 10 năm (2001 - 2010) và xây dựng Chương trình cải cách hành chính 10 năm tiếp theo (2011 - 2020), bảo đảm cải cách hành chính phải gắn với chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và quan tâm giải quyết các vấn đề bức xúc của doanh nghiệp và của công dân.

Tổng kết thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Sớm kiện toàn bộ máy chính quyền địa phương sau Đại hội Đảng các cấp, chuẩn bị cho cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 và chuẩn bị cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ khóa XIII.

Tổ chức xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011- 2020 và Kế hoạch 5 năm 2011 - 2015 bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh và bền vững, hài hoà giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; đồng thời, phải quán triệt tinh thần tiết kiệm triệt để trong sản xuất, đầu tư và tiêu dùng ngay từ khâu xây dựng kế hoạch.

7. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động từ trung ương đến địa phương và tạo sự đồng thuận xã hội cao trong việc thực hiện các nhiệm vụ năm 2010

Các tổ chức trong hệ thống chính trị cần quán triệt mục tiêu và nhiệm vụ của kế hoạch năm 2010; triển khai quyết liệt các giải pháp điều hành đã được nêu lên trong các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ.

Tăng cường chỉ đạo các cơ quan thông tin, truyền thông, báo chí đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, đưa các thông tin chính xác và kịp thời về các chủ trương, chính sách, đặc biệt là về lĩnh vực tài chính, tiền tệ và giá cả, để hướng dẫn dư luận. Các cơ quan thông tin, truyền thông phát huy tinh thần năng động, bám sát thực tiễn, phát hiện những vấn đề quan tâm của xã hội và đề xuất kiến nghị với các cơ quan chức năng xem xét, giải quyết nghiêm túc. Các thông tin sai lệch làm ảnh hưởng đến lợi ích vật chất và tinh thần của cá nhân và tổ chức đều phải được xử lý nghiêm theo pháp luật, người đưa tin sai phải bồi thường cho người bị thiệt hại.

Các cơ quan nhà nước chủ động cung cấp kịp thời các thông tin chính xác, đầy đủ và có trách nhiệm cho các cơ quan thông tin đại chúng. Tiếp tục tuyên truyền vận động nhân dân và doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, thực hành tiết kiệm và triển khai có hiệu quả cuộc vận động "người Việt Nam ưu tiên sử dụng hàng Việt Nam”.

Đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tăng cường công tác vận động, thông tin tuyên truyền, tạo sự đồng thuận xã hội trong việc thực hiện các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và tăng trưởng hợp lý, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, ổn định xã hội, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu và nhiệm vụ năm 2010.

Kính thưa Quốc hội,

Ý thức được trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, Chính phủ quyết tâm nâng cao năng lực điều hành, chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt các Nghị quyết của Quốc hội, phấn đấu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2010 ở mức cao nhất để hoàn thành các mục tiêu và nhiệm vụ của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, đồng thời  chuẩn bị và tạo tạo tiền đề thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.

Đề nghị Quốc hội ủng hộ, tăng cường giám sát để các chính sách, chế độ, biện pháp được triển khai khẩn trương, đồng bộ và đạt hiệu quả cao ở tất cả các ngành, các cấp. Chính phủ tin tưởng rằng với nỗ lực của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận của toàn xã hội, huy động tối đa sức mạnh nội lực, tận dụng tốt nhất ngoại lực, chúng ta sẽ phấn đấu thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm vụ đã đề ra.

Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội, đồng chí, đồng bào và các bạn.

Tin cùng chuyên mục