Tư vấn kinh tế - pháp luật

Nguyễn Hữu Vinh

- Tôi vừa ký hợp đồng lao động với công ty. Mức lương ban đầu rất thấp, rồi phải nộp nhiều khoản, vậy tôi có thể không tham gia bảo hiểm thất nghiệp, sau này nghỉ việc tôi không nhận bảo hiểm thất nghiệp, vậy có được không?

Nguyễn Hữu Vinh, huyện Bình Chánh, TPHCM

>> Việc đóng bảo hiểm thất nghiệp là nhằm giải quyết vấn đề an sinh xã hội, được quy định bắt buộc trong luật. Cụ thể, những đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp gồm: người lao động làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn, xác định thời hạn; hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng. Nếu người lao động giao kết và đang thực hiện nhiều hợp đồng lao động như trên thì người lao động và người sử dụng lao động của hợp đồng đầu tiên phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Riêng người lao động mà đang hưởng lương hưu, giúp việc gia đình thì không phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

Về mức nộp bảo hiểm thất nghiệp, người lao động chỉ nộp bằng 1% tiền lương tháng, công ty nộp 1% quỹ tiền lương tháng của những người lao động đang tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Mức tiền lương tháng thấp nhất để tính nộp bảo hiểm thất nghiệp là mức lương tối thiểu vùng và mức tối đa là 20 lần mức lương tối thiểu vùng.

- Tôi làm việc trong công ty được hơn 1 năm, có tham gia bảo hiểm thất nghiệp, vậy nếu tôi nghỉ việc thì có được hưởng bảo hiểm thất nghiệp không? Nếu được hưởng thì là bao nhiêu tiền?

Hồ Minh Cường, tỉnh Bạc Liêu

>> 1. Những người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp phải có đủ các điều kiện sau mới được hưởng trợ cấp thất nghiệp:

- Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc (trừ các trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật; hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng).

- Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên (trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc) của hợp đồng lao động có xác định và không xác định thời hạn.

- Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên (trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động) đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng.

- Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc.

- Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp (trừ các trường hợp thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù; ra nước ngoài định cư, đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng; qua đời).

2. Về mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng, chỉ bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp. Và luật cũng quy định mức tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định hoặc không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Bộ luật Lao động đối với người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo chế độ tiền lương do doanh nghiệp quyết định. Cứ người đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.

Thời điểm nhận trợ cấp thất nghiệp được tính từ ngày thứ 16, kể từ ngày nộp đủ hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 46 của Luật Việc làm.

Thạc sĩ luật  Đặng Thị Hàn Ni

Bạn đọc có thắc mắc về các vấn đề kinh tế - pháp luật, vui lòng gửi câu hỏi cho chúng tôi qua địa chỉ:

Mục Tư vấn Kinh tế - Pháp luật, Ban Kinh tế, Báo Sài Gòn Giải Phóng, 399 Hồng Bàng, phường 14, quận 5, TPHCM

email: hanni@sggp.org.vn

ĐT: 0903.975323

Tin cùng chuyên mục