Cách đây hơn 20 năm, Hai Ánh (Phạm Ngọc Ánh) dẫn vợ con về ấp Hố Gùi, xã Tam Giang Đông, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau sang lại 14ha đất rừng hoang hóa. Lúc đó, nhiều người cười ông bị “khùng”, đất ở đâu không mua lại chọn miếng đất người ta chê ở “mom sông” để mua, phát triển các mô hình kinh tế nước ngọt. Thế nhưng, vài năm sau dân xứ biển phải thán phục tầm nhìn xa của ông.
Bằng giọng nói từ tốn, Hai Ánh kể cho chúng tôi nghe con đường chinh phục vùng đất phèn mặn trong những ngày đầu mới về đây lập nghiệp. “Khó khăn, vất vả lắm chú ơi. Hồi đó, vợ tôi trách tôi sao không chịu ở thành thị mà đưa bả về đây ở trong căn chòi nhỏ giữa rừng. Tôi nói với bả, đất ở đâu cũng vậy, nó không phụ lòng người, chỉ sợ con người không đủ sức và nghị lực khai phá…” - Hai Ánh cười hiền nhớ lại.
Nuôi cá nước ngọt ở cửa biển
Xuất thân từ gia đình nông dân, có truyền thống cách mạng, sau ngày giải phóng Hai Ánh không ở lại thành thị như bao người khác mà ông chọn vùng đất nằm sát cửa biển Hố Gùi để mưu sinh. Ông tâm sự: “Thú thật, khi mới đặt chân đến vùng đất này, tôi nghĩ quê hương mình có thế mạnh là “rừng vàng biển bạc”; đất đai lại màu mỡ, tại sao rau cải, cá mắm không có để ăn. Từ những suy nghĩ đó, tôi quyết tâm làm giàu cho bằng được ngay trên vùng đất bị người ta chê”.
Sau khi sang lại 14ha đất rừng, Hai Ánh bắt tay ngay vào cải tạo đất. Hàng ngày, ông đào mương, lên liếp, khai thông dòng chảy để nuôi tôm, nuôi cua… Thời gian sau đó, đúng như suy nghĩ của ông, đất không phụ lòng người, vuông tôm hơn 10ha của Hai Ánh cho thu hoạch hàng chục triệu đồng/tháng. Từ những thành công bước đầu, ông nông dân thứ thiệt này tiếp tục bỏ công chinh phục đất, biến đất phèn mặn thành những bờ rau, ao cá. Nắm bắt được thổ nhưỡng của vùng đất này là vào khoảng tháng 10 âm lịch hàng năm nước mặn dâng cao, nên khi đào mương nuôi cá nước ngọt Hai Ánh lên liếp cao hơn mực nước dâng.
Ông cho biết: “Ban đầu cái gan chưa lớn nên tôi chỉ đào một ao (hơn 500m²) để nuôi thử. Tôi thả đủ loại cá như cá tra, tai tượng, cá bổi, điêu hồng… Đến cuối năm, ao cá nước ngọt này cho thu hoạch hơn 500kg cá. Sau khi trừ tất cả chi phí, tôi còn lãi hàng chục triệu đồng. Thừa thắng, tôi quyết định đào thêm nhiều ao, áp dụng nhiều mô hình mới như nuôi ba ba, nuôi gà, vịt…; còn trên bờ thì trồng đủ các loại rau màu, cây ăn trái”.
Từ một ao cá nước ngọt ban đầu, Hai Ánh nhân rộng ra thành 5 ao với diện tích hơn 4.000m², một năm cho thu hoạch 2 lần được hơn 2 tấn cá các loại. Hơn 20 năm qua, mô hình nuôi cá nước ngọt của Hai Ánh đem lại nguồn thu trên dưới 100 triệu đồng/năm.
Ông Phạm Hoàng Sang, ngụ cùng địa phương, thán phục: “Thú thật, bây giờ nhìn thấy mô hình phát triển kinh tế của Hai Ánh mà phát ham. Hồi ông ấy mới bắt tay vào làm ngay cả tôi là bạn thân cũng không thể tin ổng thành công. Vì vùng đất này chỉ nằm cách cửa biển chưa đầy 2km, nước mặn quanh năm. Vậy mà Hai Ánh đã tạo ra hẳn một “trang trại” với nhiều mô hình nước ngọt rất hiệu quả”.
Để có được nước ngọt, trong quá trình đào mương, Hai Ánh đặt ống dẫn nước ngọt từ giếng khoan ra từng ao. Đồng thời, làm hệ thống thoát nước mặn ở tầng đáy, phòng ngừa nước mặn ngấm vào khi mùa nước dâng. Sau khi chuẩn bị ao mương kỹ càng, Hai Ánh bắt đầu thả cá giống xuống nuôi. Ban đầu, khi cá còn nhỏ Hai Ánh sang vùng U Minh tìm bèo về thả xuống ao làm thức ăn cho cá. “Bèo chỉ giải quyết được thức ăn cho hàng tấn cá ở 5 ao lúc chúng còn nhỏ. Đến khi cá lớn phải cho ăn bằng các loại cá tạm mua ngoài cửa biển. Để có tiền mua cá tạp, ông trồng bông súng để có nguồn thu; bình quân giá bông súng được 10.000 đồng/kg, trong khi cá tạp chỉ 3.000 đồng/kg. Như vậy, khỏi phải bỏ tiền túi ra mà vẫn có tiền mua thức ăn cho cá, khỏe re” - Hai Ánh chia sẻ.
Ngoài các mô hình kinh tế nước ngọt, Hai Ánh còn áp dụng nuôi hào gạch, hào dây trong vuông tôm quảng canh cải tiến. Nhờ biết làm ăn và ý chí làm giàu nên từ một nông dân không có “cục đất chọi chim” ngày nào, đến nay Hai Ánh đã có trong tay hàng chục hécta đất (18ha đất rừng đước đang vào độ tuổi thu hoạch, 12ha nuôi thủy sản), với tổng nguồn thu gần 1 tỷ đồng/năm.
Sáng kiến làm giàu
Ở ấp Hố Gùi, Hai Ánh không chỉ được biết đến là người đầu tiên phát triển các mô hình kinh tế nước ngọt mà ông còn được biết đến bởi sáng kiến dùng tre thay sắt thép khi làm cống sổ vuông, góp phần giảm chi phí hàng chục triệu đồng/cống cho người dân địa phương.
Nói về việc dùng tre làm khung đổ cống, Hai Ánh phấn khởi: “Cách đây khá lâu, tôi có dịp tham quan các công trình thủy lợi ở nhiều địa phương khác. Khi về, tôi suy nghĩ đến việc dùng thanh tre thay cho sắt làm khung đổ cống. Không ngờ khi bắt tay vào làm, hiệu quả mang lại thấy rõ”.
Theo Hai Ánh, muốn cho cống có tuổi thọ lâu nên dùng tre mạnh tông hay tre gai già. Cách thức làm đơn giản, sau khi mua tre về chẻ ra thành miếng có kích thước bằng sắt 10, phơi khô. Khi tiến hành làm khung cống nên để khoảng cách từ 1 - 1,1 tấc, dùng dây kẽm cột khung, sau đó đổ xi măng thông thường như khi dùng bê tông cốt thép. Vậy mà tuổi thọ hơn 30 năm không hề hấn gì. Ông Sáu Lượt, ngụ cùng địa phương, nói: “Sáng kiến dùng tre thay bê tông cốt thép khi làm cống sổ vuông tôm của Hai Ánh rất hay. Với giá sắt như hiện nay, quân bình một cái cống phải mất hơn 10 triệu đồng, còn dùng tre chỉ tốn 1 triệu đồng, độ bền của cống rất cao”.
Nhận xét về người nông dân sáng tạo này, ông Nguyễn Truyền Thống, Chủ tịch UBND xã Tam Giang Đông, khẳng định: “Ông Hai Ánh là niềm tự hào và là tấm gương tiêu biểu đáng để nhiều người học hỏi. Ngoài việc biết làm giàu cho gia đình, ông còn nhiệt tình truyền đạt kinh nghiệm giúp bà con ở địa phương làm giàu”. Với những thành tích trên, Hai Ánh được tỉnh chọn tham dự Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc tại Hà Nội vào năm 2010 và nhận được nhiều bằng khen “Nông dân sản xuất giỏi” cấp huyện, tỉnh và Trung ương.
PHÚC HƯNG