Hòa nhịp trong xu thế phát triển chung của đất nước, triển khai chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp của Thủ tướng Chính phủ, Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn đã tiến hành cổ phần hóa một số đơn vị cấp nước, trong đó có Công ty cổ phần Cấp nước Thủ Đức.
Sau Đại hội cổ đông thành lập (tháng 11-2006), ngày 1-2-2007 công ty chính thức hoạt động theo mô hình “Công ty mẹ - con”.
Tại thời điểm tháng 12-2006, Chi nhánh Cấp nước Thủ Đức Biên Hòa – tiền thân của Công ty Cổ phần Cấp nước Thủ Đức là đơn vị có qui mô tương đối nhỏ so với các chi nhánh cấp nước trực thuộc Công ty Cấp nước Thành phố với hơn 52.000 khách hàng, sản lượng nước cung cấp 24,357 triệu m³/năm, chiều dài mạng lưới cấp nước khoảng 305.000 mét, địa bàn quản lý rộng, dân cư thưa, tốc độ đô thị hóa nhanh, mức sống người dân chưa cao, các ngành kinh doanh- dịch vụ chưa phát triển… Những đặc thù trên vừa là cơ hội, vừa là thách thức cho chiến lược kinh doanh của công ty cổ phần còn non trẻ.
Ngay từ khi thành lập, Hội đồng Quản trị, Ban Giám đốc công ty đã xác định: Để phát triển kinh doanh, tăng doanh thu, tăng sản lượng đòi hỏi công ty phải thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp trên từng lĩnh vực bao gồm: phát triển mạng lưới cấp 3, hạ tỷ lệ nước thất thoát, thất thu, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành sản xuất, kinh doanh…
Trong quá trình triển khai thực hiện các giải pháp công ty đã gặp nhiều khó khăn, trở ngại: khó khăn về nguồn vốn để đầu tư phát triển mạng cấp 3; thiếu nhân sự có kinh nghiệm, trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác chống thất thoát nước; số đồng hồ nước được lắp đặt tăng nhưng sản lượng chưa tăng tương ứng …. Bên cạnh đó ảnh hưởng chung do suy thoái kinh tế, tình hình lạm phát cao, giá cả nguyên vật liệu tăng đột biến… cũng tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty.
Để giải quyết khó khăn về vốn để thực hiện các dự án, công ty đã đề nghị và được Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn cho vay hơn 97 tỷ đồng (với lãi suất ưu đãi) để đầu tư lắp đặt đường ống cấp nước, ngoài ra công ty còn chủ động đầu tư bằng nguồn vốn của Công ty thêm một số dự án thực sự bức thiết phục vụ cung cấp nước sạch cho người dân.
Riêng năm 2011, công ty đã sử dụng vốn khấu hao cơ bản để thực hiện 12 dự án phát triển, phủ kín mạng lưới tại các phường Linh Trung, Hiệp Bình Phước… quận Thủ Đức, phường Long Bình, Phước Long B… quận 9, phường Thạnh Mỹ Lợi, Cát Lái… quận 2.
Trong công tác giảm nước thất thoát, thất thu, tranh thủ sự phối hợp, hỗ trợ của dự án USP Hà Lan để đào tạo, huấn luyện nhân viên quản lý khu vực, đến nay công ty đã có một đội ngũ nhân viên quản lý mạng lưới khu vực - Caketaker có chuyên môn vững, nắm sát địa bàn, phối hợp với việc dò bể, sửa bể kịp thời thực hiện hiệu quả việc hạ tỷ lệ nước thất thoát tại khu vực phụ trách. Nhằm tăng hiệu suất và công suất dò bể, công ty đã đầu tư, trang bị các thiết bị như: máy khuyếch đại âm thanh, máy tiền định vị, máy đo lưu lượng siêu âm, máy tương quan âm, bút dò bể…
Để tăng sản lượng, công ty đã tổ chức gặp gỡ tìm hiểu việc sử dụng nước của các khách hàng lớn, thương thảo, có chính sách ưu đãi phù hợp về giá nước để khuyến khích khách hàng tăng tiêu thụ. Đối với khách hàng cá nhân là người lao động thuê nhà để ở, chủ nhà trọ, công ty đã mở rộng việc cấp định mức nước, đơn giản các thủ tục liên quan để tạo sự an tâm, thuận lợi cho khách hàng sử dụng nước. Đặc biệt trong năm 2011, hưởng ứng chủ trương bình ổn giá, ổn định kinh tế xã hội của Chính phủ, công ty đã có chính sách áp dụng giá nước 4.400đ/m³ cho toàn bộ lượng nước tiêu thụ đối với khách hàng là người lao động, sinh viên thuê nhà trọ.
Trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011 công ty đã có bước tiến đáng kể trên mọi mặt, trong đó nổi bật nhất là công tác phát triển mạng lưới cấp nước, lắp đặt đồng hồ nước, tăng sản lượng nước cung cấp, giảm nước thất thoát, thất thu. Nếu như cuối năm 2006, trên địa bàn do công ty quản lý còn 8 phường chưa có mạng lưới cấp nước, 13 phường có độ phủ kín mạng lưới từ 30- 50%, 14 phường có tỷ lệ mạng lưới đạt trên 70% thì đến cuối năm 2011 trên địa bàn hoàn toàn không còn phường “trắng” chưa có mạng lưới cấp nước, 18/24 phường của quận 9, Thủ Đức được phủ kín mạng lưới trên 90%. Tại quận 2, ngoại trừ 5 phường giải tỏa trắng và giải tỏa một phần để thực hiện dự án khu đô thị mới Thủ Thiêm, 6 phường còn lại đều được phủ kín mạng lưới cấp nước từ 70 % - 90%. Cùng với sự phát triển mạng lưới, số đồng hồ nước lắp đặt tăng hơn 55.000 cái so với số lượng đầu năm 2007, đưa Công ty Cổ phần Cấp nước Thủ Đức trở thành đơn vị có lượng khách hàng lớn thứ 4 trong các công ty cổ phần trực thuộc Tổng Công ty.
Với hiệu quả sản xuất kinh doanh đạt được, sau hơn 3 năm cổ phần hóa, ngày 11-11-2010 Công ty Cổ phần Cấp nước Thủ Đức đã chính thức niêm yết cổ phiếu với mã Chứng khoán TDW tại Sở Giao dịch chứng khoán thành phố (HoSE), tạo điều kiện cho công ty tiếp cận kênh huy động vốn dài hạn, quảng bá thương hiệu, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, tìm kiếm đối tác, tăng sức hấp dẫn của cổ phiếu.
Năm 2011 Công ty đã vinh dự nhận được Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ vì đã có thành trong công tác từ năm 2008 đến năm 2010.
Kỷ niệm 05 năm ngày thành lập, điểm lại một số thành quả đạt được, Ban lãnh đạo, tập thể CB – CNV Công ty Cổ phần Cấp nước Thủ Đức trân trọng tri ân Ban lãnh đạo Tổng Công ty, các phòng ban chức năng trực thuộc Tổng Công ty, chính quyền địa phương, khách hàng, đối tác đã đồng hành cùng công ty trong thời gian qua. Những thành quả trên là niềm tự hào, sự khích lệ to lớn để công ty tiếp tục phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, chất lượng phục vụ khách hàng, góp phần vào sự phát triển của ngành cấp nước thành phố.
MẠNH HÒA