Thực tế lịch sử 71 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của cuộc hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu của công lao lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.
Sau khi đề nghị và được Quốc tế cộng sản chấp thuận, mùa đông năm 1938, Bác Hồ đến Trung Quốc với tên là Hồ Quang cấp bậc thiếu tá tìm cách về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc - cuộc cách mạng mà Bác đã phải mất 30 năm tìm tòi. Tháng 2-1940, mang bí danh “ông Trần”, Bác đến nhà ông bà Tống Minh Phương, Việt kiều ở 76 đường Kim Bính trong nội thành Côn Minh và Người đã chắp được mối liên hệ với Đảng và phong trào cách mạng trong nước qua Ban Công tác Hải ngoại của Đảng.
Ngày 15-6-1940, Đức tấn công nước Pháp, ngày 22-6-1940, Pháp đầu hàng Đức vô điều kiện. Trước tình hình mới, Bác Hồ (lúc này với một tên mới đồng chí Vương) đã triệu tập cuộc họp Ban Hải ngoại và Người đã phân tích “Đây là thời cơ thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước để tranh thủ nắm thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng” (1).
Theo chỉ thị của Bác Hồ, đội Tuyên truyền Giải phóng quânđược thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944
Lịch sử mãi mãi nhớ ghi: ngày 28-1-1941, đất nước đón một người con của dân tộc, trước đó 30 năm đi tìm chân lý để về giúp đồng bào trong tình cảm:
“Bác đã về đây Tổ quốc ơi,
Nhớ thương hòn đất ấm hơi Người.
Ba mươi năm ấy chân không nghỉ,
Mà đến bây giờ mới tới nơi”.
Được sự giúp đỡ của cán bộ và đồng bào địa phương, ngày 8-2-1941, với tên gọi mới là Già Thu, Bác vào ở và làm việc tại hang Cốc Bó (tiếng Nùng có nghĩa là đầu nguồn) một hang núi kín đáo của dãy núi hùng vĩ. Tại hang Cốc Bó, Bác đã tạc trên phiến nhũ đá bức tượng Các Mác, nên Bác đặt tên là núi Các Mác, ở thôn Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Đồ đạc không có gì ngoài chiếc va li mây đựng tài liệu, cái máy chữ và chiếc sàn nằm bằng tấm gỗ. Ban ngày, Bác ra bờ suối nơi đầu nguồn (mà Bác đặt tên cho suối là suối Lênin), những người giúp việc Bác, đã tạo ra cho Bác một cái bàn và một cái ghế bằng những tảng đá ghép lại để Bác làm việc. Và “sáng ra bờ suối, tối vào hang” Người bắt đầu chăm lo một sự nghiệp lớn “hai tay gây dựng một sơn hà”.