Nơi nào có ý chí nơi đó có con đường (*)

Bài 2: Tình bạn vĩ đại và cuộc đời vĩ đại

Bài 2: Tình bạn vĩ đại và cuộc đời vĩ đại

Đó chính là cuộc đời của Helen Keller (1880 - 1968) và tình bạn của bà với Anne Sullivan (1866 - 1936). Helen là nữ tác giả nổi tiếng thế giới và là một giảng viên “đặc biệt” người Mỹ, được Tổng thống Lyndon Johnson tặng thưởng Huân chương Tự do, tấm huân chương cao quý nhất của nước Mỹ.

Cuộc gặp duyên nợ

Tháng 2-1882, mười chín tháng sau khi cất tiếng khóc chào đời, Helen bị cơn sốt bại não tấn công. Thời đó, nguyên nhân căn bệnh vẫn là một bí ẩn đầy thách thức đối với giới y khoa. Helen rơi vào tình trạng sốt cao kéo dài nhiều ngày và chỉ biết nằm chờ chết. Nhưng kỳ lạ thay, cơn sốt bỗng dưng biến mất. Helen khỏe lại nhưng thị lực và thính lực không còn nữa.

Năm lên sáu, Helen được mẹ đưa đi gặp các chuyên gia y tế để tìm kiếm một cơ may nhưng hầu như vô vọng. Họ không thể làm gì khác hơn ngoài việc động viên và giới thiệu mẹ con bà đến gặp Anne Sullivan. Anne Sullivan cũng là người gần như mất hết thị lực vào năm lên năm. Tuy nhiên, trong thời gian theo học tại Học viện Y khoa Perkins, bà đã trải qua hai cuộc phẫu thuật mắt và lấy lại một phần thị lực.

Năm 1886, Anne tốt nghiệp và đi tìm việc làm. Nhưng việc làm đối với một người yếu thị lực như bà vào thời đó không phải là chuyện dễ dàng. Và như một cơ duyên, bà được giới thiệu làm gia sư cho Helen Keller. Họ gặp nhau trong hoàn cảnh đó.

Bài 2: Tình bạn vĩ đại và cuộc đời vĩ đại ảnh 1

Helen Keller (bìa phải) bắt tay Tổng thống John F. Kennedy (bìa trái)

Ngày 3-3-1887, Anne đi Tuscumbia để gặp cô trò nhỏ. Để kỷ niệm lần “gặp” nhau đầu tiên này, Anne dạy Helen “đánh vần” chữ “doll” (búp bê) bằng cách sờ trên bảng chữ nổi Braille. Song, dù Helen có thể nhận ra và ghép vần chính xác, cô vẫn không hiểu được nghĩa (vì thính giác cũng mất hoàn toàn).

Cho tới một ngày, khi Anne dắt Helen ra vườn và vừa bơm nước vừa viết từ “nước” vào lòng bàn tay cô bé, gương mặt Helen bỗng rạng ngời một niềm sung sướng. Cô đã hiểu từ “water” (nước) nghĩa là gì. Trong vòng vài giờ sau sự kiện này, Helen đã học được 30 từ mới. Sự tiến bộ của Helen gây sửng sốt cho tất cả những ai đã từng biết đến cô. Chẳng bao lâu sau, Anne bắt đầu dạy Helen đọc chữ nổi rồi đến đánh máy chữ, cả loại có phím chữ nổi lẫn máy thường.

Mùa thu năm 1900, cô bước vào Đại học Radcliffe và trở thành người mù - điếc đầu tiên tại Mỹ (và có lẽ cả thế giới) đi học đại học. Cuộc sống tại Radcliffe rất gian nan đối với Helen và Anne. Số lượng bài vở khổng lồ nhanh chóng làm hỏng thị lực của Anne.

Trong thời gian này Helen viết tự truyện “The Story of My Life”. Năm 1903, sách được xuất bản và đó là một trong những quyển sách kinh điển của nền văn học Mỹ. Ngày 28-6-1904, Helen trở thành người mù-điếc đầu tiên lấy được bằng Cử nhân của Đại học Radcliffe. Năm 1913, “Out of the Dark” được xuất bản. Đó là một loạt những bài viết về chủ nghĩa xã hội và nhờ đó, ảnh hưởng của Helen trước công chúng trở nên rất mạnh mẽ. Từ đây mọi người được biết thêm về quan điểm chính trị của Helen.

Một cuộc đời không lãng phí

Sau đó Helen và Anne bắt đầu những cuộc thuyết trình vòng quanh thế giới và sống khá thoải mái nhờ thù lao từ những buổi thuyết trình của họ. Nhưng nhu cầu nghe của khán thính giả ngày càng giảm dần. Họ chuyển qua làm kịch vui và thu được nhiều thành công vang dội. Năm 1918, Helen, Anne chuyển đến sống tại Forrest Hills, New York. Helen sử dụng ngôi nhà của họ làm cơ sở gây quỹ từ thiện giúp người mù và điếc.

Năm 1922, Anne mắc bệnh viêm phổi và yếu dần. Polly Thomson, cô thư ký cho Helen và Anne tiếp tục vai trò của Anne trên sân khấu: trở thành người “phiên dịch” cho Helen trước khán thính giả. Helen và Polly tiếp tục chu du khắp nơi trên thế giới để gây quỹ giúp đỡ người mù. Năm 1931, họ được Vua George và Hoàng hậu Mary của Anh mời vào tiếp kiến tại Điện Buckingham vì ngưỡng mộ tài năng của Helen trong việc “nghe” được người khác bằng đôi tay (không phải đôi tai) của mình. Ngày 20-10-1936, Anne qua đời. Helen bỗng cảm đơn độc như những ngày thơ ấu nhưng cô không cho phép mình đầu hàng số phận. Cùng Polly, họ lại tiếp tục tiến bước.

Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, Helen và Polly đi các nước Nhật, Úc, Nam Phi, châu Âu, châu Phi để gây quỹ cho Tổ chức Những Người Mù Hải ngoại Hoa Kỳ. Năm 1953, một bộ phim tài liệu có tên The Unconquored (Người không bị khuất phục) nói về cuộc đời Helen Keller được trao giải Oscar dành cho phim tài liệu hay nhất.

Năm 1957, vở The Miracle Worker, một vở kịch nói về thành công đầu tiên của Anne Sullivan trong việc giao tiếp với Helen khi còn bé, được dàn dựng và truyền hình trực tiếp lần đầu tiên ở Mỹ. Năm 1959, vở kịch được dàn dựng trên sân khấu Broadway và đem lại thành công vang dội. Năm 1962, nó được dựng thành phim và hai diễn viên vào vai Helen và Anne đã nhận được hai giải Oscar diễn viên xuất sắc nhất.

Năm 1960, đến lượt Polly Thomson qua đời vì hậu quả của những lần đột quỵ kéo dài. Tháng 10-1961, Helen bắt đầu hứng chịu những cơn đột quỵ đầu tiên. Bà ít giao thiệp với công chúng hơn và rút lui hẳn trong thời gian ngắn sau đó. Năm 1964, Helen được trao tặng Huân chương Tự do của Tổng thống Mỹ.

Một năm sau, bà được ghi tên vào Nhà Danh vọng Hoa Kỳ. Ngày 1-6-1968, Helen qua đời một cách bình yên trong một giấc ngủ tại nhà riêng. Hài cốt bà được đưa về đặt bên cạnh hai người bạn lớn, Anne Sullivan và Polly Thomson, tại Nhà thờ Chánh tòa Quốc gia Washington.

Ngày nay, nơi yên nghỉ của Helen là một điểm du lịch có sức hấp dẫn rất lớn đối với du khách Mỹ và quốc tế. Một tấm bia đồng được dựng lên có khắc dòng chữ kiểu Braille để tưởng niệm Helen Keller và hai người đồng hành thân thiết của bà. Du khách nào đến đó cũng muốn một lần sờ vào tấm bia có hàng chữ nổi, đến độ người ta đã phải thay tấm bia hai lần.

Bài 3: Hai vận động viên “ngoại hạng”

(*) Sách do Công ty Văn hóa Trí Việt (First News) phối hợp với NXB Tổng hợp TPHCM xuất bản.

GIANG SĨ NHƠN

Thông tin liên quan:

Bài 1: Vượt 5.000km để chạm đến ước mơ

Tin cùng chuyên mục