
Cuộc chiến chống khủng bố mở rộng của Mỹ đã làm bùng nổ hiện tượng “tư nhân hóa quân đội” như một trong những mô hình đặc biệt nổi bật trên bức tranh an ninh toàn cầu đầu thế kỷ 21. Các công ty an ninh-quân đội tư nhân cung cấp cận vệ cho tổng thống Afghanistan, xây nhà tù nhốt nghi phạm khủng bố tại Guantanamo, vận hành hệ thống viễn thông-do thám tại Bộ Tư lệnh Bắc Mỹ...
“Thảm họa cho dân chủ”

Một trong những quyển sách hay nhất vaiết về xu hướng tư nhân hóa quân sự của Lầu Năm Góc
Mật độ tập trung đông lực lượng nhà thầu quân sự tư nhân Mỹ tất nhiên là Trung Đông. Trước khi cuộc chiến Iraq diễn ra (2003), họ đảm nhận công tác hậu cầu cho loạt căn cứ quân sự Mỹ; cung cấp cận vệ cho quân đội Mỹ tại Qatar; và sử dụng đạn thật để huấn luyện lính tại doanh trại Doha (Kuwait). Chưa hết, giới thầu quân sự tư cũng được giao nhiệm vụ duy tu hệ thống vũ khí chiến lược cho cuộc chiến Iraq trong đó có oanh tạc cơ B-2, tiêm kích cơ F-117, trực thăng Apache, máy bay tiếp nhiên liệu K-10, máy bay do thám U-2, máy bay do thám không người lái Global Hawk…
Tổng cộng, Lầu Năm Góc sử dụng khoảng 20.000 nhà thầu tư tại vùng Vịnh, với tỷ lệ một dân sự (thuộc các nhà thầu) so với 10 lính chính quy, tăng 10 lần so với cuộc chiến vùng Vịnh 1991. Washington Post cho biết chương trình “tư nhân hóa chiến tranh” đã biến công nghiệp quốc phòng thành một ngành công nghiệp phức tạp hơn so với việc thuần túy sản xuất hoặc mua bán súng ống như ngày trước; và ngành công nghiệp mới này hiện trị giá 100 tỷ USD/năm. Các công ty vớ bẫm nhất đều có mặt trong danh sách Fortune 500 (500 công ty lớn nhất nước Mỹ do chuyên san Fortune bình chọn thường niên) chẳng hạn Halliburton, DynCorp, Lockheed Martin, Raytheon…
Các công ty quân sự tư nhân luôn vận động Quốc hội Mỹ để tìm kiếm tiếng nói ủng hộ cho các “thương vụ chiến tranh”; chẳng hạn họ đã thành công trong việc thúc ép Chính phủ Mỹ tháo bỏ lệnh cấm vận nhằm vào doanh nghiệp Mỹ trong việc hỗ trợ quốc phòng cho Equatorial Guinea. Chẳng trách tại sao một số ý kiến, chẳng hạn Daniel Nelson (cựu giáo sư quan hệ quân sự-dân sự thuộc Trung tâm Nghiên cứu an ninh Marshall-châu Âu của Bộ Quốc phòng Mỹ), nhận xét rằng mô hình tư nhân hóa quân sự là “thảm họa cho dân chủ”.
Tránh tiếng với dư luận
Chương trình tư nhân hóa quân sự thật ra bắt đầu từ thời Tổng thống George H. Bush (Bush bố). Sau cuộc chiến vùng Vịnh 1991, Bộ trưởng Quốc phòng Dick Cheney đã chi cho Brown & Root Services (phân nhánh của Halliburton) gần 9 triệu USD để nghiên cứu cách mà các công ty quân sự tư có thể hỗ trợ quân đội Mỹ trên mặt trận. Việc sử dụng mô hình công ty quân sự tư tiếp tục bùng nổ thời Bill Clinton và tăng cực nhanh thời George W. Bush, đặc biệt sau sự kiện khủng bố Mỹ 11-9-2001, bất chấp nhiều sự cố liên quan xảy ra ngày càng nhiều.
Năm 2001, Công ty quân sự tư Aviation Development Corp đảm nhiệm công tác tình báo cho CIA tại Nam Mỹ đã “tưởng nhầm” một máy bay bình thường là chuyên cơ ma túy của bọn buôn lậu. Thông tin sai lệch đã khiến không quân Peru bắn cháy chiếc máy bay nạn nhân, làm chết một nhà truyền giáo Mỹ và cô con gái 7 tháng tuổi! Trong nhiều trường hợp, các công ty quân sự tư tìm cách tách họ khỏi lớp áo nhà binh bằng cách quảng cáo như là công ty thuần túy an ninh.
Tuy nhiên, mức độ hoạt động của họ lại khác hẳn. Military Professional Resources Inc (MPRI) chẳng hạn, công ty này có đến 12.500 cựu binh đầy kinh nghiệm về đủ lĩnh vực, từ vũ khí hạt nhân đến chiến thuật tấn công bằng tàu ngầm. MPRI cung cấp nhân sự cho các trung tâm tuyển lính của bộ binh Mỹ; huấn luyện sĩ quan tác chiến; bảo đảm an ninh các căn cứ Mỹ ở Hàn Quốc; và thậm chí nhận thầu huấn luyện-cố vấn cho quân đội nước ngoài từ Kuwait, Balkans đến Nam Phi. MPRI từng được lãnh đạo bởi Carl Vuono, nguyên tư lệnh trưởng bộ binh Mỹ thời cuộc chiến vùng Vịnh 1991; với các trợ lý gồm tướng Crosbie Saint, nguyên tư lệnh trưởng quân đội Mỹ tại châu Âu; tướng Harry Soyster, nguyên tư lệnh trưởng Cơ quan quân báo Bộ Quốc phòng…
Tờ Mother Jones cho biết, 17 công ty quân sự tư đã “đầu tư” hơn 12,4 triệu USD cho các chiến dịch tranh cử Quốc hội lẫn tổng thống Mỹ từ năm 1999. Theo một báo cáo năm 2001, 10 công ty quân sự tư đã chi hơn 32 triệu USD cho các chiến dịch vận động hành lang. Công ty mẹ của MPRI, L-3 Communications, có hơn 12 nhà vận động hành lang trong đó có Linda Daschle, vợ của (nguyên) thủ lĩnh phe thiểu số Thượng viện Tom Daschle.
Cựu đại tá Tom Sweeney (giáo sư hậu cần chiến lược thuộc Đại học chiến tranh-Army War College) nói rằng chương trình tư nhân hóa quân sự như cách Lầu Năm Góc đang làm sẽ “cho phép người ta tập trung nhân lực vào tất cả các kiểu sứ mạng chiến sự”. Hơn nữa, việc dùng các công ty quân sự tư cũng giúp Lầu Năm Góc tránh được tiếng đối với dư luận Mỹ - như nhận xét của Myles Frechette, đại sứ Mỹ tại Colombia thời Clinton.
Nếu bọn buôn lậu ma túy bắn chết lính Mỹ, người ta có thể thấy một hàng tít giật gân cùng bài báo chỉ trích nặng nề; tuy nhiên, khi ba nhân viên DynCorp (tham gia cuộc chiến chống ma túy tại Nam Mỹ) bị giết chết tại Peru, người ta chỉ đọc bản tin này với vỏn vẹn 113 từ trên tờ New York Times! Và hãy thử tưởng tượng dư luận Mỹ sẽ phản ứng kinh khủng như thế nào nếu hai thi thể bị treo trên cầu Fallujah không là hai nhân viên Blackwater mà là hai lính Mỹ! Thế cho nên, cứ vậy mà Lầu Năm Góc bán thầu cho giới công nghiệp quân sự-quốc phòng tư nhân….
Lê Thảo Chi
Bài liên quan:
- Bài 2: “Quan hệ” giữa Blackwater và đảng Cộng hòa
- Bài 3: Quân đoàn lê dương Aegis
- Bài 4: Lính đánh thuê đến từ đâu?