
Người bệnh tiểu đường (TĐ) phải chịu rất nhiều biến chứng. Sự xuất hiện các biến chứng có thể giống nhau ở cả TĐ type 1 lẫn type 2. Tuy nhiên, vì TĐ type 2 xảy ra ở người lớn tuổi thường mắc thêm đồng thời nhiều bệnh lý khác nên làm gia tăng hoặc làm các biến chứng nặng hơn lên gấp nhiều lần…
Biến chứng mãn tính ở người TĐ thường xảy ra ở các cơ quan: liên quan đến mạch máu nhỏ: mắt (đáy mắt), thận, thần kinh. Liên quan đến mạch máu lớn: gây xơ chai mạch máu; cao huyết áp; ảnh hưởng đến tim, não, mạch máu ngoại biên (nuôi chân) và các biến chứng khác; tổn thương da; nhiễm trùng; đau khớp…

Bệnh nhân chạy thận nhân tạo.
Người bệnh TĐ thường bị các biến chứng mãn vì nhiều lý do: Do lượng đường tăng cao trong máu (làm hư mạch máu nhỏ, xơ chai mạch máu lớn; tạo ra lượng lớn các chất độc vượt quá khả năng khử độc của cơ thể; cơ thể không đủ sức chống lại tình trạng nhiễm trùng).
Do yếu tố thể tạng, gia đình, di truyền: Cùng một lượng đường huyết cao như nhau, nhưng người bệnh này có thể dễ có nhiều biến chứng hơn người bệnh kia.
Do vậy, không phải người bệnh TĐ nào cũng bị đủ các biến chứng theo thời gian. Các yếu tố khác góp phần tăng biến chứng thận: cao huyết áp, béo phì, tăng mỡ máu, hút thuốc lá, ít vận động.
- Sự hình thành của biến chứng thận ở bệnh nhân TĐ
Thận là máy lọc của cơ thể, hoạt động liên tục để giúp loại bỏ các chất độc mà cơ thể đã tạo ra hay nhận vào. Các chất độc từ máu bằng cách băng qua thành các mạch máu nhỏ đến thận để tạo lập nước tiểu. Ở người bệnh có biến chứng thận, các mạch máu nhỏ này bị tổn thương do lượng đường cao, không còn khả năng lọc máu; mạch máu đã bị nghẽn hay bị rò rỉ khiến các chất độc đáng lẽ được thải ra lại ở lại trong máu và các chất dinh dưỡng đáng lẽ ở lại trong máu lại mất qua nước tiểu.
Tỷ lệ biến chứng thận tính chung ở người bệnh TĐ là 20%-30%. Khoảng 30%-35% bệnh nhân TĐ type 1 và 10%-20% bệnh nhân TĐ type 2 mắc bệnh thận sau 15 năm bị TĐ. TĐ type 1 dễ mắc bệnh thận hơn TĐ type 2. Bệnh thận do TĐ là nguyên nhân hàng đầu gây suy thận mãn giai đoạn cuối và phải thay thận.
- Các dạng bệnh lý thận ở người bệnh TĐ
Bệnh lý thận ở người bệnh TĐ có thể do chính bệnh này gây ra. Khởi đầu do lượng đường trong máu tăng làm mạch máu dãn, thận tăng lọc và to ra, sau đó đến các giai đoạn: tiểu ra Albumin (đạm) lượng nhỏ (30-300mg/24 giờ). Xét nghiệm nước tiểu thông thường không phát hiện được .
Lúc này chức năng thận vẫn bình thường (đo Creatinin bình thường). Cấu trúc thận có thay đổi, thường kèm cao huyết áp. Nếu không can thiệp tích cực thì 20%-40% tiến triển đến suy thận (giai đoạn này là yếu tố dự đoán quan trọng tiến triển của bệnh thận).
Giai đoạn tiểu ra Albumin (đạm) lượng lớn (>300mg/24 giờ). Lúc đầu chức năng thận vẫn còn bình thường, dần dần thận lọc giảm, chức năng thận giảm (Creatinin tăng dần). Người bệnh bị phù do mất chất đạm trong máu. Điều trị ở giai đoạn này chủ yếu làm giảm mức độ suy thận và làm chậm nhu cầu phải lọc thận. Suy thận giai đoạn cuối: Thận mất khả năng lọc máu, tiểu ít, phù tăng dần.
Cơ thể bị ứ đọng chất độc, ứ nước, khó thở, suy tim, hôn mê. Điều trị bằng biện pháp thay thế thận. Bệnh do nguyên nhân phối hợp khác (cao huyết áp; nhiễm trùng đường tiểu; hẹp động mạch thận; bất thường hình thể thận hay bộ máy bài tiết; ứ trệ nước tiểu do u xơ tiền liệt tuyến (nam); do biến chứng bọng đái thần kinh (bọng đái bị dãn); do sỏi; do thuốc gây độc thận…
- Triệu chứng và cách điều trị
Điều cần lưu ý là biến chứng thận không có triệu chứng rõ ràng, ngay cả khi có nhiễm trùng tiểu, (có thể có cao huyết áp), chỉ có Albumin xuất hiện trong nước tiểu (phát hiện qua xét nghiệm). Phù là triệu chứng muộn. Chỉ có triệu chứng rõ khi đã… suy thận (thận giảm 80% chức năng) như: phù, tiểu ít, thiếu máu, mất ngủ, mệt, khó thở, ói mửa, hôn mê khi các chất độc trong máu tăng cao.
Để phát hiện sớm biến chứng thận, cần xét nghiệm nước tiểu tìm Albumin và đo chức năng thận lúc mới phát hiện TĐ. Nếu âm tính thì thử lại hàng năm. Nếu dương tính thì thử chức năng thận và thử lại mỗi 3-6 tháng.
Về điều trị, cần điều trị đáp ứng tốt ở giai đoạn tiểu Albumin lượng nhỏ: Điều trị các yếu tố làm nặng thêm; phát hiện sớm, điều trị tích cực nhiễm trùng tiểu. Hoạt động điều trị gồm: kiểm soát huyết áp (đưa huyết áp về mức <130/80); kiểm soát tốt đường huyết; thận trọng trong việc sử dụng thuốc; điều trị tăng mỡ máu; chế độ ăn giảm đạm và giảm muối theo hướng dẫn của bác sĩ; giảm cân nếu có béo phì, kiêng rượu bia, thuốc lá.
Điều trị kết hợp với bác sĩ chuyên khoa thận khi protein niệu cao, creatinin tăng cao. Suy thận giai đoạn cuối: Lọc máu (chạy thận nhân tạo): sử dụng máy lọc thận nhân tạo thay thế chức năng của thận đã bị hư. Chất độc được lấy ra từ động mạch và được lọc đưa trở về qua tĩnh mạch. Thường cần lọc 3 lần/tuần, kéo dài 2-4 giờ tại các trung tâm lọc thận.
Lọc màng bụng (thẩm phân phúc mạc): thay vì dùng máy lọc, thì dùng xoang bụng hay màng bụng. Dịch lọc đưa vào một ống đến màng bụng. Sau vài giờ, dịch đưa các chất độc chảy ra khỏi màng bụng. Cách này có thể thực hiện ở nhà nếu được hướng dẫn rõ. Cuối cùng, ghép thận là biện pháp điều trị có hiệu quả nhất, tuy nhiên rất tốn kém và kết quả còn tùy vào thận được cho và cuộc mổ.
BS TRẦN THỊ BÍCH THỦY