Vượt qua hơn 100km từ tỉnh lỵ Kon Tum, chúng tôi mới đến được xã biên giới Mô Rai, huyện Sa Thầy, giáp ranh nước bạn Campuchia. Khi mùa xuân đến, núi rừng Mô Rai trầm mặc bỗng như xanh thêm bởi màu xanh áo lính, vui hơn bởi tiếng cười trai trẻ, thắm hơn bởi nghĩa tình quân dân.
“Nhật ký giúp dân”
Mô Rai chiều cuối năm, chúng tôi cùng thiếu tá Nguyễn Văn Khiển, thượng úy Đồng Thanh Tĩnh (Đồn biên phòng 707, xã Mô Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum) về các làng Grập, làng Rẽ, làng Kênh, làng Xộp, làng Le…
Đi đến đâu, chúng tôi cũng được bà con đón tiếp như người thân lâu ngày gặp lại. Bởi trong những năm qua, cán bộ chiến sĩ Đồn 707 đã làm được rất nhiều việc để chung sức với người dân thoát bỏ cái nghèo. Đó là gần 1.000 ngày công giúp dân làm nhà, 12 ngôi nhà tình nghĩa, xây dựng các làng Tang, làng Le, làng Kênh trở thành các làng văn hóa…
Trong quyển ghi chép của thượng úy Đồng Thanh Tĩnh - quyển “Nhật ký giúp dân” của chi đoàn thanh niên Đồn 707, còn có danh sách 122 học sinh đã bỏ học được các anh vận động trở lại trường, có cả những chuyến đi nghĩa tình khám bệnh và cấp phát thuốc miễn phí cho người dân.
Đêm biên giới Mô Rai đã gieo vào lòng chúng tôi quá nhiều cảm xúc. Người dân mảnh đất này đã bao đời gắn bó, bám đất, giữ rừng để cùng bộ đội biên phòng canh giữ đất trời Tổ quốc.
Trong men rượu cần ngây ngất chốn vùng biên, già làng A Glá vít cần rượu thật sâu mời chúng tôi cùng uống. Ông nói: “Cán bộ à, người dân Mô Rai với bộ đội biên phòng như anh em một nhà thôi. Cái bụng của bộ đội nó tốt lắm, nó mang lại niềm vui cho dân làng mình đó!”. Ông nhắc lại những cái tên, có những người đã chuyển công tác khỏi đồn 707 như Phạm Xuân Bốn, Hoàng Văn Hà…
Chiến sĩ Lưu Văn Hiệp nhớ lại: “Hôm tôi và Bốn trở lại Mô Rai, người dân làng Xộp, làng Le, làng Kênh cứ vây lấy, ôm lấy tôi và Bốn mà khóc, khóc thành tiếng - Tại sao thằng Bốn đi mãi không về? Cuộc hội ngộ đầy ắp tình người.
Xúc động hơn là hình ảnh ông A Chóc, năm nay đã ngoài 80 mùa rẫy, cứ ôm lấy Bốn xuýt xoa: “Thằng em mình năm nay lớn quá, anh nhìn mãi mới nhận ra”. Thì ra A Chóc và Bốn đã kết nghĩa anh em. Ông lại nói như với chính mình: “Thằng Bốn tốt bụng lắm, nó dạy mình biết cái chữ, giúp trồng cây lúa nước. Đêm nằm ngủ, mình mơ thấy nó nhiều lần. Thương nó quá. Chỉ có anh em trong nhà thì mới giúp nhau như thế chứ!”.
Cái lý của ông A Chóc giản đơn, mộc mạc như chính lòng người Mô Rai vậy. Còn già làng A Buông ở làng Xộp thì tâm sự: “Bộ đội biên phòng vừa dạy học, vừa giúp dân lao động sản xuất, khám chữa bệnh cho bà con nên bà con quý lắm. Việc gì cũng gọi biên phòng. Các anh về làng, vui rừng, ấm bản… Mình nhớ lắm tình cảm của thằng Sơn (y sĩ Nguyễn Quang Sơn) trong những lần xuống chữa bệnh cho dân, hay thằng Hòa, thằng Thô… trong những lần dạy con chữ cho bà con”.
Ở Mô Rai trước đây còn hủ tục, nếu người mẹ chết mà đứa con còn nhỏ thì cũng được chôn theo mẹ. Đây được xác định là vấn đề “nóng bỏng” mà Đồn Biên phòng 707 quyết tâm vận động bà con xóa bỏ.
Bước đầu, anh em phải đối mặt với những thách thức vì hủ tục đã sâu chặt trong lòng người dân nơi đây. Anh em bộ đội biên phòng dám đương đầu với thử thách và đã cứu được những đứa trẻ sơ sinh thoát khỏi sự nghiệt ngã của hủ tục, viết nên những câu chuyện cổ tích dưới chân núi Mô Rai những năm về trước.
Những người con của buôn làng
Đồn biên phòng 707 đứng chân trên địa bàn xã biên giới Mô Rai thuộc huyện Sa Thầy (tỉnh Kon Tum). Đường biên giới của xã tiếp giáp với nước bạn Campuchia dài 110km nên nhiệm vụ của những người lính biên phòng lại càng nặng nề.
Thượng tá Võ Quốc Việt, Đồn trưởng Đồn Biên phòng 707, tâm sự: “Được giao nhiệm vụ quản lý, bảo vệ 21km đường biên giới xã Mô Rai, hơn 5 năm qua, cán bộ chiến sĩ nơi đây đã khắc phục vượt lên gian khó, bám trụ vững vàng nơi vùng biên đầy khắc nghiệt”.
Ngoài nhiệm vụ giữ gìn an ninh biên giới, cán bộ chiến sĩ Đồn Biên phòng 707 còn có nhiệm vụ chăm lo đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây. Với hơn 2.000 nhân khẩu, gồm 11 dân tộc chủ yếu là đồng bào dân tộc Ja Rai và Rơ Mâm, trong đó, Rơ Mâm là một trong các dân tộc ít người nhất ở Việt Nam, hiện nay còn 123 hộ, 360 khẩu đang sống tập trung ở làng Le.
Đời sống của đồng bào còn gặp nhiều khó khăn, các tập tục lạc hậu vẫn tồn tại, ý thức tự vươn lên dựng xây cuộc sống còn hạn chế, phương thức canh tác sản xuất còn xưa cũ, không hiệu quả là những vấn đề được cán bộ, chiến sĩ Đồn 707 đưa vào chương trình hành động giúp dân trong những năm qua. Nhiều năm sống trong lòng dân, các anh đã trở thành những người con thương yêu của buôn làng.
Trung tá Hoàng Văn Hà, nguyên chính trị viên Đồn 707 vẫn khắc ghi cái ngày anh được ông bà A Blong ở làng Le nhận về làm con nuôi với một nghi thức rất trang trọng là “cắt máu uống rượu thề”. Buổi lễ kết nghĩa được mời cả làng và đồn biên phòng đến chứng kiến.
Ông bà A Blong cho thịt con trâu, sừng dài hơn 3 nắm tay cùng 2 ghè rượu. Còn Hà phải ra thị trấn mua bộ quần áo, đôi dép, cái mũ mới về tặng cha; tìm cặp Kà Tu (váy), chiếc cặp tóc thật đẹp về tặng mẹ.
Sau nghi thức “uống rượu thề”, cả làng Le say sưa ca hát, tiếng cồng chiêng rộn rã, trò chuyện thâu đêm… Bà con thay nhau chúc mừng gia chủ có thêm thành viên mới là cán bộ của đồn biên phòng và cũng không quên căn dặn “thằng Hà” về trách nhiệm của người con của bản làng.
Mùa xuân đã về trên biên giới Mô Rai. Giữa cái lạnh tê buốt của tiết trời cuối đông, những người lính Đồn Biên phòng 707 vẫn ngày đêm tuần tra, lặng lẽ mang niềm vui, cuộc sống mới đến với bản làng.
ĐỨC TRUNG