Cần bảo tồn đa dạng sinh học

Biến đổi khí hậu (BĐKH) sẽ làm suy giảm rất lớn sự đa dạng của tất cả các loài động, thực vật phổ biến ở hầu hết các khu vực trên thế giới. Sự biến mất của sự đa dạng sinh học sẽ làm suy giảm nghiêm trọng bầu sinh quyển và hệ sinh thái, gây tác hại tới cuộc sống con người.

Biến đổi khí hậu (BĐKH) sẽ làm suy giảm rất lớn sự đa dạng của tất cả các loài động, thực vật phổ biến ở hầu hết các khu vực trên thế giới. Sự biến mất của sự đa dạng sinh học sẽ làm suy giảm nghiêm trọng bầu sinh quyển và hệ sinh thái, gây tác hại tới cuộc sống con người.

Tại hội thảo “Lồng ghép phương pháp tiếp cận dựa vào hệ sinh thái thích ứng với BĐKH vào quá trình xây dựng quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học” mới đây, các chuyên gia trong lĩnh vực này cho rằng, chính việc khai thác quá mức tài nguyên sống, ô nhiễm môi trường từ các hoạt động nông, lâm nghiệp, dân số gia tăng, BĐKH là những nguyên nhân khiến tình trạng đa dạng sinh học ngày càng suy giảm.

Bên cạnh đó, với 67% dân số sinh sống ở nông thôn có sinh kế phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên và hơn 35% tổng dân số vẫn còn nghèo chính là một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ mất rừng ngày càng cao, đa dạng sinh học suy giảm, nhiều loài biến mất, các giá trị dịch vụ hệ sinh thái chưa được đánh giá đúng… Trong đó, BĐKH được coi là một trong những nguyên nhân chủ yếu và tiềm ẩn những tác động tiêu cực nhất, đe dọa sự sống của các loài, các hệ sinh thái. BĐKH với những hệ quả như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, xói mòn… đã làm suy thoái đa dạng sinh học nhanh hơn, trầm trọng hơn.

Hiện nay, các quốc gia Tiểu vùng Mêkông mở rộng, trong đó có Việt Nam được đánh giá là khu vực năng động và có tốc độ, nền kinh tế và sinh kế người dân dựa vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đây là khu vực có tính đa dạng sinh học cao, với sự phong phú về hệ sinh thái, loài và nguồn gen… Các hệ sinh thái trong khu vực này có tiềm năng bảo vệ, tránh thảm họa và có thể thích ứng với BĐKH và những rủi ro về thiên tai khác.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đa dạng sinh học của khu vực này đang bị suy giảm nhanh. Để ứng phó với tình trạng trên, hiện các quốc gia Tiểu vùng Mêkông mở rộng đang coi việc thích ứng và giảm thiểu tác động của BĐKH như là một ưu tiên phát triển. Những cách tiếp cận mới để thích ứng với những rủi ro và thảm họa ở cấp quốc gia và khu vực đã và đang được quan tâm xây dựng. Việt Nam là một trong những nước đang phải chịu rủi ro thiên tai cao nhất thế giới.

Nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho thấy, trái đất nóng lên có thể sẽ làm hơn 150.000 người Việt Nam thiệt mạng và 5 triệu người khác bị mắc các chứng bệnh khác nhau. Con số này có thể sẽ còn tăng gấp đôi vào năm 2030, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh kinh tế - xã hội và tính mạng con người. Chính vì thế, Việt Nam nên tiếp cận giải pháp mới để thích ứng với rủi ro thiên tai.

Theo các chuyên gia, phương pháp tiếp cận dựa vào hệ sinh thái là cách thức để quản lý tổng hợp các nguồn tài nguyên đất, nước và sinh vật, nhằm thúc đẩy việc bảo tồn và sử dụng bền vững. Đây cũng là cơ hội để hỗ trợ người dân và sinh vật thích ứng với các tác động bất lợi do BĐKH gây ra.

HÀ PHƯƠNG

Tin cùng chuyên mục