(SGGPO). - Sáng 18-11, Quốc hội đã nghe ông Phan Trung Lý, Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội, Ủy viên Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp (DTSĐHP) năm 1992, Trưởng Ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến đại biểu Quốc hội (ĐBQH) thảo luận ở tổ và hội trường và chỉnh lý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và dự thảo Nghị quyết về việc thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013).
Sau khi báo cáo giải trình, Ủy ban DTSĐHP đề nghị các ĐBQH nghiên cứu, sửa trực tiếp vào các điều khoản của dự thảo sửa đổi Hiến pháp; đồng thời cho ý kiến về một số nội dung của dự thảo được thể hiện trong phiếu xin ý kiến gửi ĐBQH.
Trên cơ sở ý kiến của các ĐBQH, Ủy ban DTSĐHP sẽ tiếp tục nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo với mong muốn có bản dự thảo Hiến pháp với chất lượng tốt nhất, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, trình Quốc hội xem xét, thông qua vào ngày 28-11 tới trước khi Quốc hội bế mạc.
Không quy định nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự trong Hiến pháp
Báo cáo tiếp thu, giải trình cho thấy, về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4), tuyệt đại đa số ý kiến tán thành với quy định tại Điều này. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị chỉnh lý lại về câu chữ, cách thể hiện; có ý kiến đề nghị thay quy định Đảng “chịu trách nhiệm về những quyết định của mình” bằng quy định Đảng “chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình”. Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thì Đảng phải chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình. Nhưng quy định Đảng “chịu trách nhiệm về những quyết định của mình” như dự thảo là cụ thể và rõ hơn trách nhiệm của Đảng trước nhân dân và dân tộc. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ nội dung này như đã thể hiện trong dự thảo.
Về quốc kỳ (Điều 13), có ý kiến đề nghị quy định cụ thể kích thước, vị trí của ngôi sao trên quốc kỳ; đề nghị bổ sung một số biểu trưng quốc gia khác vào Điều này. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, các biểu trưng quy định tại Điều 13 là những biểu tượng mang tính quốc gia, có tính lịch sử, đã được quy định và sử dụng ổn định từ Hiến pháp năm 1946 đến nay. Do vậy, đề nghị Quốc hội cho tiếp tục kế thừa quy định này của các Hiến pháp mà không bổ sung một số biểu trưng quốc gia khác. Đồng thời, để bảo đảm tính ổn định lâu dài, Hiến pháp chỉ quy định có tính khái quát và cơ bản, còn các chi tiết cụ thể về kích thước, vị trí của ngôi sao trên quốc kỳ sẽ được xem xét để mô tả và quy định trong các văn bản khác.
Về quyền bào chữa (khoản 4 Điều 31), có ý kiến đề nghị thay cụm từ “có quyền bào chữa và sử dụng trợ giúp pháp lý” bằng cụm từ “có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa và sử dụng trợ giúp pháp lý”. Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, ý kiến đại biểu Quốc hội nêu là hợp lý, xin phép Quốc hội cho tiếp thu và chỉnh lý lại khoản 4 Điều 31 như sau: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”.
Về nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự (Điều 45), nhiều ý kiến đề nghị trong Hiến pháp chỉ quy định về nghĩa vụ quân sự mà không nên quy định về nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự. Ủy ban DTSĐHP tán thành với ý kiến nêu trên và nhận thấy, việc quy định về nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự là yêu cầu thực tiễn nhưng Hiến pháp chỉ nên quy định về nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ cơ bản, thiêng liêng của mỗi công dân. Việc thực hiện nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự là nội dung mới, sẽ được xem xét, nghiên cứu khi sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về nghĩa vụ quân sự. Do đó, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đề nghị không quy định nghĩa vụ thay thế nghĩa vụ quân sự trong Hiến pháp.
Hiến pháp chỉ quy định nguyên tắc về thu hồi đất và các trường hợp được thu hồi đất
Về vai trò của doanh nhân, doanh nghiệp (khoản 3 Điều 51), cùng với việc bổ sung cụm từ “doanh nhân”, có ý kiến đề nghị bổ sung vai trò của doanh nghiệp vào khoản 3 Điều 51. Ủy ban DTSĐHP tán thành với ý kiến nêu trên và thấy rằng, vai trò của doanh nhân, doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là rất quan trọng, đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến này và thể hiện tại khoản 3 Điều 51 của dự thảo.
Về thu hồi đất (khoản 3 Điều 54), có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 3 Điều 54 nội dung: “được Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, phê duyệt” trước cụm từ “vì mục đích quốc phòng, an ninh quốc gia...”. Có ý kiến băn khoăn về cụm từ “thật cần thiết” trong các trường hợp thu hồi đất vì rất khó xác định. Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, để tránh lạm dụng và hạn chế việc thu hồi đất tùy tiện, Hiến pháp chỉ quy định nguyên tắc về thu hồi đất và các trường hợp được thu hồi đất; còn thẩm quyền xem xét, phê duyệt, quyết định cụ thể và xác định như thế nào là trường hợp “thật cần thiết” để thu hồi đất thì sẽ do Luật đất đai quy định. Do đó, Ủy ban DTSĐHP xin phép Quốc hội cho giữ quy định về thu hồi đất như dự thảo.
Về trưng dụng đất (khoản 4 Điều 54): Có ý kiến đề nghị quy định chặt chẽ hơn các trường hợp trưng dụng đất theo hướng: Nhà nước chỉ trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai. Tiếp thu ý kiến nêu trên, Ủy ban DTSĐHP đề nghị cho chỉnh lý lại khoản 4 Điều 54 về các trường hợp Nhà nước trưng dụng đất như dự thảo.
Về bảo vệ Tổ quốc (Chương IV), có ý kiến đề nghị bổ sung một khoản vào Điều 64 hoặc Điều 65 quy định “Lực lượng vũ trang của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và dân quân tự vệ”. Tuy nhiên, theo Ủy ban DTSĐHP, nội hàm của lực lượng vũ trang đã được cụ thể hóa trong các điều 65, 66 và 67 của dự thảo Hiến pháp và các luật chuyên ngành. Vì vậy, không cần thiết phải có một khoản riêng định nghĩa về lực lượng vũ trang trong Hiến pháp.
Thành lập mới, sáp nhập, chia tách đơn vị hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương
Qua các phiên thảo luận, nội dung chính quyền địa phương (Chương IX) còn rất nhiều ý kiến khác nhau. Cụ thể, về đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương, qua thảo luận, có ĐBQH tán thành với quy định về đơn vị hành chính và chính quyền địa phương như Dự thảo. Tuy nhiên, nhiều ý kiến đề nghị Hiến pháp quy định khái quát về các đơn vị hành chính, còn việc phân định cụ thể đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh sẽ do luật định phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo. Về mô hình, Hiến pháp cần xác định chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND). Một số ý kiến khác đề nghị bổ sung đơn vị hành chính hải đảo; quy định rõ thẩm quyền thành lập đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt thuộc Quốc hội hay Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của ĐBQ, Ủy ban DTSĐHP đề nghị quy định về đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương như sau: Về đơn vị hành chính (Điều 110), dự thảo tiếp tục giữ quy định về các đơn vị hành chính tại Điều 118 của Hiến pháp năm 1992 nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ, ổn định trong cả nước và bổ sung quy định về đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập như dự thảo.
Cũng theo Ủy ban, việc không bổ sung đơn vị hành chính hải đảo vào Điều 110 là vì khi xác lập đơn vị hành chính ở hải đảo phải căn cứ vào các đặc điểm về diện tích, quy mô dân số và các yếu tố khác liên quan,… mà cơ quan có thẩm quyền xác định hải đảo đó là đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp huyện hay cấp xã. Đối với đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, do đây là loại đơn vị hành chính có tính chất “đặc biệt” với những cơ chế, chính sách đặc thù về kinh tế cũng như về hành chính, có thể không phù hợp với một số quy định của luật. Vì vậy, việc thành lập các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt này phải do Quốc hội quyết định; còn đơn vị hành chính kinh tế - đặc biệt trực thuộc trung ương hay trực thuộc tỉnh thì sẽ do luật định khi Quốc hội quyết định thành lập.
Về tổ chức chính quyền địa phương (Điều 111), Dự thảo quy định chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính địa phương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định. Cách quy định như vậy một mặt cơ bản giữ ổn định mô hình tổ chức của chính quyền địa phương hiện hành. Mặt khác, tạo điều kiện cho việc tiếp tục đổi mới, tạo cơ sở hiến định cho việc xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương sau khi có kết quả tổng kết, đánh giá việc không tổ chức HĐND huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội và bước đầu thí điểm xây dựng mô hình chính quyền đô thị, chính quyền ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ở một số địa phương…
Về điều kiện thành lập mới và điều chỉnh địa giới hành chính (Điều 110): Có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc thành lập mới, chia tách, sáp nhập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến của nhân dân địa phương nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương, bảo đảm tính ổn định của các đơn vị hành chính, bảo đảm chặt chẽ, tránh tình trạng “nhập - tách” thiếu căn cứ. Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, ý kiến nêu trên là xác đáng. Vì vậy, đã tiếp thu và chỉnh lý lại khoản 2 Điều 110 như sau: “Việc thành lập mới, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính phải lấy ý kiến nhân dân địa phương và do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định”.
| |
PHAN THẢO