Chương trình 712 giai đoạn I: Kỳ vọng về đích đúng hẹn

Quá nửa chặng đường của giai đoạn I, Chương trình 712 đã có sự lan tỏa trong các thành phần kinh tế. Một không khí mới về nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ Việt Nam đang lên cao và kỳ vọng sẽ đạt được mục đích đề ra vào năm 2015.
Chương trình 712 giai đoạn I: Kỳ vọng về đích đúng hẹn

Quá nửa chặng đường của giai đoạn I, Chương trình 712 đã có sự lan tỏa trong các thành phần kinh tế. Một không khí mới về nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ Việt Nam đang lên cao và kỳ vọng sẽ đạt được mục đích đề ra vào năm 2015.

Chương trình 712 còn được biết đến với tên gọi Chương trình Quốc gia “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 712/QĐ-TTg ngày 21-5-2010. Mục tiêu của chương trình này là xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, các hệ thống quản lý, mô hình, công cụ cải tiến năng suất và chất lượng; phát triển nguồn nhân lực cần thiết để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa; đồng thời tạo bước chuyển biến rõ rệt về năng suất và chất lượng của sản phẩm, hàng hóa chủ lực, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Theo quyết định được Thủ tướng ban hành, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện chương trình, điều hành hoạt động của chương trình và thực hiện các dự án được phân công; tham gia ý kiến với các bộ, ngành, địa phương trong việc xây dựng và triển khai thực hiện các dự án thuộc phạm vi chương trình; hướng dẫn, kiểm tra và định kỳ hàng năm tổng hợp tình hình và báo cáo Thủ tướng Chính phủ; tiến hành sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả và hiệu quả thực hiện chương trình.

Theo Bộ KH&CN, Chương trình 712 chia ra làm 2 giai đoạn, gồm: Giai đoạn I từ năm 2010 – 2015; Giai đoạn II từ năm 2016 – 2020. Trong đó, giai đoạn I của chương trình, các hoạt động thiết thực đã diễn ra và theo Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Việt Thanh – Phó Trưởng ban điều hành chương trình, Bộ KH&CN được Chính phủ giao là cơ quan đầu mối tổ chức thực hiện, điều hành hoạt động của chương trình.

Đánh giá của Bộ KH&CN, trong thời gian qua, các dự án nâng cao năng suất chất lượng thuộc các bộ, ngành, địa phương đều đã tập trung và định hướng theo mục tiêu tăng năng suất, tăng tỉ trọng đóng góp của năng suất yếu tố tổng hợp (TFP) vào tốc độ tăng trưởng GDP, gắn liền với định hướng công nghiệp hóa theo hướng hiện đại hóa của Chính phủ trong thời gian tới.

“Chương trình 712 được phê duyệt vào đúng thời điểm các doanh nghiệp Việt Nam đang cần một động lực để chuyển mình từ giai đoạn phát triển theo hướng tập trung đầu tư vốn và sử dụng nguồn lao động giá rẻ sang giai đoạn phát triển với cách thức quản lý hiệu quả hơn, ứng dụng tiến bộ khoa học và đổi mới công nghệ, mang lại giá trị gia tăng cao hơn. Hàng hóa và dịch vụ “Made in Vietnam” đã và đang dần lấy lại uy tín trên thị trường trong nước, nhưng việc cạnh tranh tên thị trường khu vực và quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng thương hiệu một cách bài bản hơn, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa thông qua chất lượng, giá cả và tính đổi mới sáng tạo cao hơn nữa. Các tiêu chuẩn, qui chuẩn kỹ thuật, các phương thức quản lý tiên tiến cùng với đội ngũ nhân lực có kỹ năng và chất lượng là những điểm tựa quan trọng để các doanh nghiệp hội nhập thị trường quốc tế và từng bước có mặt trong các chuỗi cung ứng có sức cạnh tranh toàn cầu”, Thứ trưởng Trần Việt Thanh nhận định.

Theo mục tiêu đề ra, trong giai đoạn I của chương trình, bắt đầu từ năm 2010 – 2015, nước ta sẽ xây dựng mới 4.000 tiêu chuẩn quốc gia (TCVN), bảo đảm đồng bộ các TCVN cho các sản phẩm, hàng hóa chủ lực của nền kinh tế; 45% TCVN của hệ thống tiêu chuẩn quốc gia hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực.

Quản lý bằng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với 100% các nhóm sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn, vệ sinh, ô nhiễm môi trường; Thiết lập mạng lưới tổ chức đánh giá sự phù hợp quy chuẩn kỹ thuật; phù hợp tiêu chuẩn quốc gia đối với sản phẩm, hàng hóa chủ lực.

Đặc biệt, trong giai đoạn này, các bộ, ngành, địa phương cùng với doanh nghiệp phải xây dựng phong trào năng suất và chất lượng tại 40 tỉnh, thành phố trong cả nước. Xây dựng đội ngũ chuyên gia, cán bộ tư vấn về năng suất và chất lượng; tổ chức, cá nhân hoạt động chuyên nghiệp về năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa tại các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm, hàng hóa chủ lực. 40.000 doanh nghiệp được hướng dẫn ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và đổi mới công nghệ, áp dụng các hệ thống quản lý, mô hình, công cụ cải tiến năng suất và chất lượng. 40% doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm, hàng hóa chủ lực xây dựng và thực hiện các dự án nâng cao năng suất và chất lượng. Góp phần nâng tỉ trọng đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) trong tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) lên 30% vào năm 2015.

Cho đến nay, ngoài 2 dự án do Bộ KH&CN thực hiện là Dự án “Xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật” và “Thúc đẩy hoạt động năng suất và chất lượng” đang được triển khai rất tích cực, các dự án thuộc các bộ ngành và hơn 35 dự án năng suất chất lượng địa phương đã được UBND tỉnh/thành phố phê duyệt cho thấy hoạt động năng suất và chất lượng đã có xu hướng lan tỏa và ảnh hưởng tới nhiều hoạt động và đời sống kinh tế xã hội trong cả nước.

Ông Trần Văn Vinh – Phó Tổng cục trưởng, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng – cơ quan thường trực của Ban điều hành chương trình cho rằng, khó khăn chung mà các bộ ngành, địa phương đang mắc phải là tình hình khó khăn của nền kinh tế, dẫn đến doanh nghiệp khó khăn. Điều này tác động không nhỏ tới quá trình triển khai của bộ ngành, địa phương và doanh nghiệp. Ảnh hưởng tới nguồn tài chính, kinh phí cho việc triển khai chương trình. Nhận thức và mức độ quan tâm của doanh nghiệp chưa tốt. Đội ngũ chuyên gia cũng đang trong quá trình đẩy mạnh đào tạo, xây dựng. Kinh phí có hạn nên mức độ học tập, nghiên cứu chưa nhiều… Cơ quan quản lý và bộ ngành địa phương cũng có những hạn chế, chương trình vẫn chưa được triển khai tốt trong thời gian qua.

Một thực tế hiện nay đặt ra là số doanh nghiệp phá sản, rời khỏi thị trường, ngừng sản xuất quá lớn trong khi Chương trình 712 lại hướng vào cộng đồng doanh nghiệp. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, số doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể hoặc ngừng hoạt động năm nay là 60.737 doanh nghiệp, tăng 11,9% so với năm trước”.

Cụ thể, số doanh nghiệp đã giải thể là 9.818 doanh nghiệp, tăng 4,9%; số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 10.803 doanh nghiệp, tăng 35,7%; số doanh nghiệp ngừng hoạt động nhưng không đăng ký là 40.116 doanh nghiệp, tăng 8,6%.

Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Việt Thanh cho rằng, không còn con đường nào khác là chúng ta phải triển khai một cách quyết liệt và mạnh mẽ để chương trình nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội.

Nguyễn Nam

Tin cùng chuyên mục