
Suốt 30 năm, trải qua 2 cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống thực dân Pháp và đánh đuổi đế quốc Mỹ, hầu như làng nào, xã nào cũng có người phải ngã xuống, trở thành thương binh, liệt sĩ. Nhưng ở làng Tân Trào, “thủ đô cách mạng”, “thủ đô kháng chiến”, thuộc huyện Sơn Dương (Tuyên Quang), lại là nơi có thể coi là duy nhất không có ai là thương binh, liệt sĩ.
Không thương binh, liệt sĩ
Chúng tôi tìm về ngôi làng nằm hẻo lánh, yên bình trong xóm núi Tân Lập (nơi có cây đa Tân Trào nổi tiếng). Nhà trưởng thôn Ma Anh Tuấn, ngoài 50 tuổi, nằm ở đầu làng, phía sau quả đồi. Từ đây, chỉ đi thêm 1km nữa là sang ATK Định Hóa (Thái Nguyên).
Ông Tuấn nói: “Ở đây, chúng tôi rất tự hào là người dân của quê hương cách mạng, nơi Bác Hồ đã từng sống và làm việc những ngày chuẩn bị Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, nơi khai sinh ra nền dân chủ cộng hòa. Điều đặc biệt là trong suốt 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, trong ngôi làng bé nhỏ này có hàng chục người hăm hở tham gia kháng chiến. Thế nhưng, không một ai bị thương, bị chết cả, trong khi hầu như làng nào cũng có thương binh, liệt sĩ”.
Ông Tuấn nói rằng, nếu không tin, chúng tôi có thể đến gặp bất cứ người dân nào ở Tân Lập để tìm hiểu.
Trên đường trở lại xóm có cây đa Tân Trào, chúng tôi gặp ông Nguyễn Văn Tơn, 53 tuổi, đang thả trâu dọc đường làng. Ông Tơn hồ hởi: “Thế hệ chúng tôi hồi ấy có tới gần 20 người lên đường tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Riêng tôi thì trở thành lính thông tin ở Lái Thiêu (Bình Dương). Đánh từ đầu năm 1970, đến khi thắng lợi mới trở về, nhưng rất lạ là không có ai bị sao cả”.
Khi bước vào ngôi nhà sàn của cụ Hoàng Trung Dân nằm ngay sau cây đa Tân Trào, chúng tôi tình cờ gặp Bí thư Đoàn xã Tân Trào, Trương Văn Bằng. Anh Bằng nói rằng anh chỉ là lớp hậu thế, lớn lên không biết chiến tranh khốc liệt ra sao. Nhưng sự kiện ở trong làng không có ai là thương binh, liệt sĩ trong suốt 30 năm, kể từ lúc bắt đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (năm 1946) đến khi kết thúc chiến tranh chống Mỹ (1975) vẫn được người dân kể đi kể lại như một câu chuyện thần kỳ.

“Thực ra, trong làng Tân Lập chỉ có 2 người là thương binh, nhưng không phải trong chống Pháp, chống Mỹ mà mãi tận khi xảy ra chiến tranh biên giới, năm 1979”, anh Bằng nói. Đó là hai anh Hoàng Văn Dũng, 47 tuổi và Ma Văn Tác, gần 50 tuổi. Anh Dũng bị đạn xuyên qua ngực nhưng không chết. Còn anh Tác thì cả một viên đạn “bay” vào đầu gối, bây giờ trở về vẫn đi cày đất, vác lúa bình thường.
Chúng tôi đi tìm gặp thêm ông Hoàng Ngọc, con của cụ Hoàng Trung Nguyên, một “tự vệ đỏ” năm xưa tham gia đón Bác Hồ về ở và làm việc tại chiến khu Tân Trào từ ngày 21-5-1945 và bảo vệ Bác cho đến cuối tháng 8-1945. Ông Ngọc kể, năm 1945, ông từng là 1 trong 4 thiếu niên được vinh dự mang trứng, gạo, mấy con gà và dắt theo cả một con bò đến làm quà cho Quốc dân Đại hội chiều 17-8-1945.
Sau đó vài năm, ông hăm hở bước vào 2 cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, đi theo tiếng gọi của cách mạng, với niềm tự hào mãnh liệt là một người dân quê hương cách mạng. Đến khi nước nhà hoàn toàn thống nhất ông mới trở về, nhưng không một mảnh bom, mũi đạn nào có thể lấy được tính mạng của ông. Năm nay đã 71 tuổi, ông thuê hẳn một quả đồi nằm sâu trong rừng để làm trang trại, như một thú vui lúc tuổi già.
Hỏi ông “Tại sao số lượng người Tân Trào tham gia cách mạng gồm vài chục người, nhưng không có ai trở thành thương binh, liệt sĩ?”, ông Ngọc nở một nụ cười tự tin: “Người dân quê tôi tin rằng ở cây đa có một vị thần độ trì, che chở. Cũng có người cho rằng Tân Lập là nơi Bác Hồ đã sống và làm việc, nơi đã che chở cho Người, nên khi xông pha trong lửa đạn, họ cũng được tâm hồn và đức sáng của Người che chở”.
Tinh thần “không sợ chết”

Câu chuyện của chúng tôi còn trở nên thú vị hơn khi gặp cụ Ma Văn Huấn, 76 tuổi, 53 năm tuổi Đảng. Cụ kể, từ năm 19 tuổi, cụ đã bắt đầu trở thành bộ đội cụ Hồ. Năm 1950, với mũ lá cọ, quần áo vải, cụ theo hàng chục chiến sĩ rời làng đi chiến dịch, hành quân lên tận Phú Thọ, Cao Bằng, Yên Bái… Sau đó trở thành chiến sĩ phòng không trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
“Chiến dịch Điện Biên Phủ vô cùng ác liệt. Người Tân Trào tham gia đông lắm, nhưng không ai hy sinh cả. Bởi vì chúng tôi ra đi với tinh thần sẵn sàng chết và không sợ chết”, cụ Huấn dõng dạc. “Mỗi khi ra trận, chúng tôi đều hát vang bài “Vì nhân dân quên mình” của nhạc sĩ Doãn Quang Khải. Hồi đó, bài hát ấy thôi thúc chúng tôi nhiều lắm. Nó đã cổ vũ và tiếp thêm nguồn sức mạnh rất lớn cho chúng tôi tham gia chiến dịch”. Cụ còn kể, trước khi bắt đầu lên đường đi chiến dịch, đồng đội của cụ chỉ được huấn luyện có 3 tháng ở Vũ Ẻn (Phú Thọ). Nhưng phải rèn tập rất gian khổ. Tất cả chỉ là trận giả, nhưng làm như chiến trường thật và bắn đạn thật. Nếu bò và nhảy qua đúng vị trí, đúng khoảng thời gian thì thoát. Ngược lại thì sẽ ăn đạn. Bởi vậy, sự thuần thục trong tập luyện sẽ giúp chiến sĩ trưởng thành và khôn ngoan hơn khi xông pha trận mạc.
Cụ khẳng định: “Có thể chuyện ở Tân Trào không có ai bị thương, bị chết trong chiến tranh là một tình cờ hoặc do thần linh che chở như nhiều người vẫn đang tin như vậy. Nhưng tôi thì nghĩ rằng, nguyên nhân chính là người Tân Trào luôn sẵn trong máu tinh thần kháng chiến, tinh thần cách mạng, không sợ khổ và không sợ chết”.
Ở tuổi đã cao nhưng cụ Huấn còn khá rắn rỏi. Mấy chục năm cống hiến cho cách mạng, nhưng khi trở về, cụ vẫn hài lòng với cuộc sống đạm bạc ở quê hương mình. Tài sản mà cụ trân trọng nhất là những tấm huân, huy chương chống Pháp, chống Mỹ đã ố cũ bởi thời gian.
Trao đổi với PV Báo SGGP, ông Viên Tiến Thắng - Chủ tịch UBND xã Tân Trào - cho biết, tính từ năm 1945 đến năm 1975, ở Tân Trào đã có hơn 200 lượt thanh niên lên đường nhập ngũ và đều lành lặn trở về. Tuy nhiên, để cảm tạ những chiến sĩ đã hy sinh xương máu cho Tổ quốc trong cả nước, xã cũng lập một đền thờ ở khu trung tâm để cứ hàng năm đến ngày 27-7 lại thắp hương, dâng hoa tưởng niệm, như một nghĩa cử ghi nhớ những người có công với đất nước. |
Văn Phúc