Liên tiếp trên các số báo gần đây, Báo SGGP đã phản ánh tình trạng nông dân trồng lúa trúng mùa nhưng rớt giá, không được hưởng trọn vẹn thành quả của mình; chính sách hỗ trợ của nhà nước không đến được nông dân; nông dân luôn lép vế trong chuỗi sản xuất - lưu thông - xuất khẩu… Vấn đề đặt ra là nước ta cơ bản vẫn là nước nông nghiệp, phần lớn cư dân sống ở nông thôn, vì sao nông dân không khá lên được, làm giàu từ mảnh đất của mình mặc dù bỏ sức lao động cần mẫn.
Về khách quan, theo Liên hiệp quốc, Việt Nam đứng thứ 6 trong các quốc gia chịu thiệt hại nặng nề do thiên tai, dịch bệnh, mất mùa; gây thiệt hại sản xuất nông nghiệp hàng năm 1,8 tỷ USD. Còn theo một nghiên cứu khác, mỗi năm nông dân Việt Nam mất khối tài sản ước tính 1,5% GDP (trên 10 tỷ USD) do biến đổi khí hậu, sản xuất lạc hậu và thiên tai, dịch bệnh. Đây thật sự là một thảm họa đối với sản xuất nông nghiệp, mức độ thiệt hại rất lớn và người chịu trận vẫn là nông dân. Do đó, rất cấp bách nông dân cần một sự bảo đảm cho công sức và thành quả lao động của mình. Và bảo hiểm nông nghiệp - kể cả đầu vào sản xuất và đầu ra sản phẩm - là phao cứu sinh, có thực hiện được mới có thể nói đến chuyện xóa đói giảm nghèo bền vững, nông dân sống được bằng nghề nông và làm giàu từ nông nghiệp.
Trước vấn nạn này, năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 315/QĐ-TTg về việc thí điểm thực hiện bảo hiểm nông nghiệp (BHNN). Trong đó thực hiện bảo hiểm cây lúa tại các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Thuận, An Giang, Đồng Tháp; bảo hiểm trâu, bò, heo, gia cầm tại Bắc Ninh, Nghệ An, Đồng Nai, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Thanh Hóa, Bình Định, Bình Dương và Hà Nội; bảo hiểm nuôi trồng thủy sản tại Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu và Cà Mau.
Mục tiêu bảo hiểm là hỗ trợ người sản xuất nông nghiệp bù đắp thiệt hại, thúc đẩy sản xuất qua việc hỗ trợ 100% phí bảo hiểm cho người nghèo, 90% hộ cận nghèo và các hộ nông dân khác 60%. Tính đến tháng 9-2013, có 316.545 tổng lượt hộ tham gia BHNN ở 20 tỉnh thành được lựa chọn triển khai, là con số rất khiêm tốn so với hộ nông dân ở nước ta. Tuy vậy, năm 2012 đã xảy ra tổn thất lớn trong sản xuất nông nghiệp, BHNN thu không đủ bù chi, các doanh nghiệp bảo hiểm gặp nhiều khó khăn nên BHNN bị thu hẹp và có nguy cơ ngưng trệ, mặc dù đây là chính sách đúng đắn, góp phần an sinh nông dân, rất cần thiết phải thực hiện trên diện rộng do bối cảnh sản xuất nông nghiệp luôn gặp nhiều rủi ro và sức ép cạnh tranh hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực tế, Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, nhiều mặt hàng đạt giá trị kim ngạch 1 tỷ USD/năm nhưng nông dân luôn phải đối mặt sự bấp bênh của đầu ra sản phẩm. Những tháng đầu năm 2014 tình hình càng khắc nghiệt hơn: giá lúa rớt sâu, bán dưới giá thành; rau củ, quả không tiêu thụ được, phải bỏ tại ruộng hoặc cho gia súc ăn; đầu ra sản phẩm thu hẹp nên bị thương lái mặc sức làm giá, ép giá… Vì vậy, để an sinh nông dân, ngoài bảo đảm đầu vào sản xuất còn phải bảo hiểm đầu ra nông phẩm để nông dân không bị thiệt thòi, không thụ hưởng được thành quả của mình. Về vấn đề này, năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 80/2002/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản qua hợp đồng; là quyết định rất đúng đắn nhằm ổn định đầu ra sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, hơn 10 năm qua kết quả đạt được rất thấp. Các mặt hàng chủ lực, như lúa gạo bao tiêu qua hợp đồng với nông dân chỉ đạt khoảng 2,5%, cà phê: 2,7%, chè: 9%, thủy sản: 13%. Vì vậy, mục tiêu đến năm 2020 phải đạt từ 80% - 85% lượng mía đường, tôm, cá tra; đạt 15% - 30% đối với chè, lúa, trái cây… là không khả thi, nếu không có giải pháp, chính sách mới liên kết chặt chẽ giữa người sản xuất và doanh nghiệp, sản xuất với thị trường.
Để tránh thiệt thòi trên thương trường, sản xuất và tiêu thụ nông sản luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia có ngành nông nghiệp phát triển, chứ không phải là việc riêng của nông dân. Về phía nông dân, nhu cầu rất đa dạng để tiến tới sản xuất bền vững, như cần được đào tạo, tập huấn kỹ thuật mới trong sản xuất; chia sẻ hài hòa lợi ích giữa người sản xuất và doanh nghiệp trong chuỗi giá trị xuất khẩu nông sản; giúp nông dân thuận lợi trong việc vay vốn, được vay vốn đủ cho nhu cầu sản xuất để có tiềm lực tham gia BHNN. Mặt khác, có triển khai BHNN được trên diện rộng mới gỡ khó cho nông dân và cả ngân hàng trong việc giải ngân vốn. Tuy nhiên, những yêu cầu trên là “quá sức” với người dân, do đó, cần được các cơ quan chức năng gấp rút nghiên cứu với tinh thần trách nhiệm cao và đề xuất, ban hành chính sách mới phù hợp, vực dậy sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển hiện đại, bền vững, tránh vấn nạn sản xuất, chăn nuôi tự phát “chặt-trồng-trồng-chặt”, không để nông dân đánh cược với thị trường, khấp khởi lo âu khi vào mùa vụ…
LÊ TIỀN TUYẾN