Loãng xương - bệnh âm thầm nguy hiểm

Chẩn đoán:
Loãng xương - bệnh âm thầm nguy hiểm

Theo Tổ chức Y tế thế giới, nguy cơ gãy xương do loãng xương đối với phụ nữ thường từ 30% - 40%; ở nam giới là 13%. Số trường hợp gãy cổ xương đùi có thể tăng từ 1,7 triệu vào năm 1990 đến 6,3 triệu vào năm 2050.

Loãng xương - bệnh âm thầm nguy hiểm ảnh 1
Đi bộ là một trong những biện pháp giúp xương chắc khỏe. Ảnh: K.O.

Tiến sĩ bác sĩ Lê Anh Thư - Trưởng khoa Nội cơ xương khớp Bệnh viện Chợ Rẫy, Chủ tịch Hội Loãng xương TPHCM - cho biết, xương là một mô sống luôn có hai quá trình xảy ra song song: tiêu hủy xương và tái tạo xương.

Khi con người còn trẻ, phần xương mất đi sẽ được bù đắp dễ dàng. Ở tuổi 30, bộ xương đạt độ vững chắc nhất. Tuy nhiên, khi lớn tuổi, mỗi ngày lượng xương được tạo ra ít hơn so với lượng xương mất đi, dẫn đến tình trạng loãng xương. Loãng xương thường gặp ở người lớn tuổi, cả nam lẫn nữ, nhưng đặc biệt gặp nhiều ở nữ sau khi mãn kinh (khoảng 20%) do lượng hóc môn sinh dục nữ giảm, canxi không được giữ lại ở xương, khiến xương trở nên xốp và mỏng manh hơn, đưa đến loãng xương. Ở nam giới, kích thích tố nam không giảm đột ngột nhưng giảm dần từ tuổi 50. Dù độ đặc của xương ở nam giới vẫn duy trì ở một mức độ nào đó cho đến khi họ già đi, nhưng từ tuổi 75 trở đi, xương của cả nam lẫn nữ đều mỏng đi nhiều, đặc biệt là ở xương hông.

Theo thời gian, độ cứng chắc của xương giảm dần nhưng hầu như không có triệu chứng rõ ràng. Một số người có thể bị đau trong xương hoặc cơ, đặc biệt là ở lưng. Trong nhiều trường hợp, triệu chứng đầu tiên là gãy xương chỉ sau một va chạm nhẹ. Việc giảm chiều cao thể hiện qua việc lưng còng từ từ (bởi gãy lún nhiều đốt sống) có thể là dấu hiệu duy nhất của loãng xương. Bất kỳ xương nào cũng có thể bị ảnh hưởng bởi loãng xương, nhưng đặc biệt là cổ xương đùi và xương sống. Gãy cổ xương đùi là một trong những nguyên nhân chính làm mất khả năng vận động, phải nằm lâu và có thể chết vì các biến chứng. Gãy cột sống và đốt sống cũng có thể để lại hậu quả nghiêm trọng bao gồm giảm chiều cao, đau lưng nặng, và biến dạng cột sống (còng, vẹo, gù).

Chẩn đoán: Loãng xương có thể được chẩn đoán trước khi xảy ra gãy xương. Có rất nhiều xét nghiệm có thể giúp đánh giá mật độ xương. Chính xác nhất là phương pháp năng lượng tia X kép (DXA) để đo mật độ xương. Phương pháp này không gây đau và có thể thực hiện trong vòng 5-15 phút. Với những người đã có gãy xương, việc chẩn đoán loãng xương dựa trên sự kết hợp của các triệu chứng, khám lâm sàng và X-quang xương.

Người có nguy cơ loãng xương thường có các đặc điểm: vóc người nhỏ bé, không sinh đẻ, mãn kinh sớm, cắt bỏ buồng trứng do bệnh, chế độ ăn ít canxi, có bệnh tiêu hóa mạn tính, sử dụng một số thuốc như corticoid và sử dụng quá nhiều hóc môn tuyến giáp, lối sống ít hoạt động, nằm bất động kéo dài, hút thuốc, uống nhiều rượu bia, gia đình có người bị loãng xương…

Phòng ngừa:
Có thể phòng ngừa loãng xương bằng chế độ ăn có đủ canxi, vitamin D; có lối sống thích hợp; năng vận động, tập luyện (tập tạ, chạy nhẹ, đi bộ, leo cầu thang, khiêu vũ, thái cực quyền...).

Điều trị:
Mục tiêu của điều trị là ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh loãng xương và việc tiếp tục mất xương để giảm nguy cơ gãy xương. Hiện có nhiều phương pháp điều trị và nhiều loại thuốc an toàn, hiệu quả. Để phát hiện và điều trị đúng cách, kịp thời, người có nguy cơ loãng xương nên đến các cơ sở y tế chuyên khoa để được bác sĩ hướng dẫn cụ thể.

Mỗi năm cả nước ta có khoảng 120.000 người bị gãy xương do loãng xương. Riêng tại BV Chấn thương Chỉnh hình TPHCM, mỗi năm có khoảng 500 người bị gãy đầu trên xương đùi do loãng xương được điều trị với chi phí trung bình: xuyên đinh qua da: 3 triệu đồng; thay chỏm Moore: 8,5 triệu đồng; thay khớp lưỡng cực: 30 triệu đồng; thay khớp xi măng: 35 triệu đồng...

THÙY MY

Tin cùng chuyên mục