Trong các chính sách về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, bảo hiểm nông nghiệp (BHNN) là chính sách có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển bền vững nông nghiệp, an sinh xã hội và đời sống người dân nông thôn. Đây là chính sách được nhân dân và cả hệ thống chính trị các địa phương, nhất là vùng ĐBSCL quan tâm. BHNN được ví như “bà đỡ” cho nông dân và là một trong những giải pháp quan trọng nhằm giải quyết công tác xóa đói, giảm nghèo cho nông dân; giúp nông dân giảm bớt khó khăn do hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tạo công cụ cho nông dân quản lý rủi ro và tìm kiếm nguồn tài chính bù đắp thiệt hại, góp phần bảo đảm ổn định an sinh xã hội nông thôn, phát triển sản xuất nông nghiệp…
Theo Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, tại ĐBSCL, sau hơn 1 năm thực hiện thí điểm BHNN đã giải quyết bồi thường cho hơn 4.000 hộ/6.400 hộ bị thiệt hại, với số tiền hơn 280 tỷ đồng, giúp cho hơn 4.000 hộ dân của 7 địa phương vùng ĐBSCL giảm bớt khó khăn, có điều kiện, kinh phí để tiếp tục tái đầu tư sản xuất vụ tiếp theo.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện thí điểm BHNN đã nảy sinh nhiều vướng mắc giữa quy định của cơ quan có thẩm quyền và thực tế sản xuất, nuôi trồng ở địa phương. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân triển khai thực hiện chưa có kinh nghiệm, thủ tục bảo hiểm còn phức tạp đã gây nhiều bức xúc cho nông dân tham gia bảo hiểm
Bộ Tài chính đã ban hành nhiều quyết định và được điều chỉnh nhiều lần, nhưng vẫn chưa hợp lý. Trong đó có Quyết định số 2114/QĐ-BTC ngày 24-8-2012 của Bộ Tài chính (Quyết định 2114) nâng mức tỷ lệ phí bảo hiểm nuôi tôm thâm canh từ 7,42% lên 9,72%, quy định doanh nghiệp bảo hiểm có quyền từ chối bồi thường hoặc từ chối một phần nếu mật độ tôm thực tế thấp hơn 80% so với mật độ trong giấy chứng nhận bảo hiểm, tôm thả không đồng nhất về kích cỡ, được xác định nhiều loại độ tuổi cùng nuôi trong một cơ sở nuôi trồng. Gần đây nữa là Quyết định số 1725/QĐ-BTC ngày 23-7-2013 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung Quyết định 1042 tiếp tục nâng mức phí bảo hiểm đối với tôm từ 9,72% lên 13,73%. Như vậy sẽ gây khó khăn cho những hộ nuôi tôm những vụ trước bị thiệt hại.
Trong khi đó, các đơn vị tham gia BHNN như Công ty Bảo Việt hoạt động theo cơ chế kiêm nhiệm là chính, lực lượng chuyên trách thiếu và yếu, chưa có kinh nghiệm trong thực hiện nhiệm vụ; Công ty Bảo Minh ban hành một số nội dung quy định chưa phù hợp thực tế nên lúng túng, xử lý chưa phù hợp quy định, gây bức xúc cho người tham gia bảo hiểm. Việc bồi thường thiệt hại còn chậm, chưa kịp thời nên hiện các tỉnh trong vùng ĐBSCL còn tồn đọng hơn 2.000 hồ sơ thiệt hại chưa được đơn vị bảo hiểm giải quyết.
Bên cạnh đó, một số hộ nuôi tôm chưa tuân thủ việc ghi nhật ký ao nuôi, chứng từ đầu tư, giấy kiểm dịch giống. Các hộ nghèo được nhà nước hỗ trợ đầu tư nên phát sinh tâm lý ỷ lại, thiếu tuân thủ quy trình kỹ thuật, thả giống với mật độ quá dày nên nguy cơ phát sinh dịch bệnh cao. Hiện tại các tỉnh ven biển thực hiện thí điểm bảo hiểm đối với tôm chưa có quy trình xét nghiệm, chẩn đoán bệnh hoại tử gan tụy cấp trên con tôm mà chỉ xác định bằng phương pháp kiểm tra lâm sàng, gây khó khăn cho cơ quan thú y trong việc xác định dịch bệnh. Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện vẫn còn lúng túng; công tác tuyên truyền, tập huấn còn hạn chế, chưa kể những vụ việc lợi dụng BHNN để trục lợi.
Đối với BHNN trên cây lúa tại An Giang và Đồng Tháp, một số cán bộ, đảng viên có đất canh tác tại các huyện thí điểm chưa thể hiện tinh thần nêu gương trong việc thực hiện nên phần nào cũng làm giảm lòng tin đối với nông dân. Các quy định về BHNN trên cây lúa trên phạm vi rộng lớn, chưa phù hợp cho từng hộ tham gia, các quy định về bồi thường còn nhiều phức tạp, tốn nhiều thời gian làm giảm sự tin tưởng của nông dân tham gia bảo hiểm… Khi có thiệt hại xảy ra, nông dân vẫn phải chờ đến cuối vụ lúa, khi thống kê công bố năng suất mới được bồi thường…
Ngoài ra, còn nhiều tác nhân gây thiệt hại trên lúa, như mưa lớn bất thường, triều cường gây ngập úng, ốc bươu vàng, chuột hại chưa được Bộ NN-PTNT bổ sung vào đối tượng thiên tai, dịch bệnh thuộc phạm vi BHNN. Tuy nhiên, có một tín hiệu vui trong BHNN là gần đây, Công ty cổ phần Bảo hiểm Ngân hàng NN-PTNT (ABIC) đã tham gia vào lĩnh vực này. ABIC sẽ có kế hoạch nghiên cứu các dạng BHNN theo từng loại cây trồng khác nhau để thí điểm ở một số địa phương. Nhưng việc triển khai sẽ cần phải có lộ trình và cần rất nhiều sự hỗ trợ từ các cấp ngành có liên quan.
Có thể thấy, BHNN là chủ trương đúng đắn, sát với thực tế, hợp với nông dân, nhất là vùng nông nghiệp trọng điểm ĐBSCL. Để tiếp tục nhân rộng chính sách này, cần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho người dân. UBND các tỉnh trong vùng ĐBSCL cũng đã kiến nghị Chính phủ, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, Bộ Tài chính, Bộ NN-PTNT có tổng kết, đánh giá để ban hành chính sách ổn định, lâu dài và nhân rộng ra, nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro cho nông dân.
XUÂN QUANG