Chất lượng giáo dục đại học Việt Nam đang ở đâu?
| ||
Trong vài năm gần đây, Chính phủ đã có những quyết sách và giao Bộ GD-ĐT thực hiện những giải pháp quyết liệt để giải quyết hàng loạt yếu kém, bất cập của giáo dục ĐH nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Song, cho đến nay, những hạn chế có tính hệ thống ấy vẫn còn ngổn ngang khi đụng đến đâu cũng thấy những nhận xét thiếu và yếu.
Yếu từ “ngoại thất” đến “nội thất”
Đánh giá kiểm tra hoạt động đào tạo của các cơ sở giáo dục ĐH Việt Nam trong những năm qua, Bộ GD-ĐT cho rằng: Với sự đầu tư của Nhà nước, sự quan tâm của các địa phương, cũng như các quy định của Bộ GD-ĐT, nhiều trường đã xây dựng cơ sở vật chất và tạo môi trường sư phạm tốt như ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Quốc gia TPHCM, ĐH Tôn Đức Thắng… Một số trường đã có phòng thí nghiệm (PTN), thực hành hiện đại đáp ứng được nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu. 100% trường được đầu tư, trang bị phòng máy vi tính và nối mạng internet, nhiều trường đã xây dựng thư viện điện tử hiện đại đạt chuẩn khu vực…
Tuy nhiên, những điểm sáng yếu ớt đó không thể khỏa lấp hàng loạt bất cập về cơ sở vật chất làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả đào tạo. Bộ GD-ĐT đã nhìn rõ và rất thẳng thắn cho rằng: Qua kiểm tra thực hiện cam kết thành lập trường tại 25 cơ sở ĐH, cao đẳng (16 trường công lập, 9 trường ngoài công lập) cho thấy có một số trường chưa có đất sử dụng, chưa xây dựng cơ sở vật chất trên diện tích đất hiện có, chưa xây dựng cơ sở đào tạo tại địa điểm đã đăng ký thành lập trường theo quyết định của Thủ tướng, nhiều trường vẫn phải thuê mướn địa điểm để hoạt động, thậm chí có trường chưa chứng minh được việc sử dụng đất.
“Ngoại thất” đã vậy, còn “nội thất” các trường lại càng tệ hơn. Thiết bị đào tạo, PTN các trường ĐH còn yếu kém, chỉ có 22,5% PTN được đánh giá có chất lượng thiết bị tốt, công nghệ của thiết bị PTN cũng được đánh giá đạt mức trung bình, chỉ có 19,7% PTN được đánh giá có công nghệ thiết bị hiện đại. Chỉ có 15,5% PTN được các trường đánh giá là đạt về mức độ đáp ứng nhu cầu nghiên cứu của khoa học, chủ yếu là các PTN trọng điểm của một số trường ĐH hàng đầu (ở hai ĐH Quốc gia Hà Nội và TPHCM).
Số máy tính trang bị cho giảng viên và sinh viên còn rất thấp, tính trung bình 3,6 giảng viên có 1 máy tính; 27,3 sinh viên mới có 1 máy tính. Về thư viện, chỉ có 87,8% số trường có thư viện truyền thống, trong số đó chỉ có 38,9% thư viện áp dụng các tiêu chuẩn như thư viện hiện có ở Việt Nam hoặc trên thế giới. Diện tích phòng đọc của thư viện hẹp và số lượng chỗ ngồi đọc ít, mức độ đáp ứng nhu cầu đọc của sinh viên còn rất thấp, tính trung bình 21,2 sinh viên mới có 1 chỗ ngồi, diện tích phòng đọc thư viện bình quân 0,05m²/sinh viên (không tính sinh viên đào tạo hợp đồng), trong đó, khối kinh tế - luật có tỷ lệ này thấp nhất (chỉ đạt 0,02m²/sinh viên). Có sự khác nhau khá xa giữa các vùng miền, giữa các trường địa phương quản lý và các trường trung ương quản lý. Trong thư viện, các loại sách và tạp chí phổ thông và giáo trình chiếm phần lớn, hầu như không có các loại sách, tài liệu tham khảo chuyên sâu phục vụ cho nghiên cứu, rất ít sách, tài liệu tham khảo bằng tiếng nước ngoài, số bản sách, tài liệu trung bình mới chỉ đạt khoảng 11,7 bản/sinh viên…
Trường ĐH Công nghệ Thông tin Gia Định thành lập 2007 nhưng đến nay cơ sở toàn đi thuê mướn
Lực lượng giảng dạy thiếu vẫn hoàn thiếu
Tính đến năm 2013-2014, số giảng viên trong các trường ĐH, cao đẳng là 91.633 người, số giảng viên có học hàm GS hơn 517 người, số giảng viên có học hàm PGS là hơn 2.966 người và tổng số giảng viên có học vị TS hơn 9.562 người. Tuy nhiên, so với yêu cầu đổi mới giáo dục ĐH, chất lượng đội ngũ giảng viên vẫn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng.
Mặc dù các trường đã có nhiều nỗ lực, cố gắng đào tạo, bồi dưỡng giảng viên nhưng cho tới nay công tác này còn một số tồn tại, hạn chế như: Tỷ lệ giảng viên có học hàm GS, PGS, TS trong toàn hệ thống còn ở mức thấp; một số cơ sở đào tạo chuyên ngành Th.S, TS không có giảng viên, nhiều trường ngoài công lập dựa vào nguồn giảng viên thỉnh giảng là chính.
Qua rà soát, tỷ lệ sinh viên/giảng viên hiện nay là 22,7 (nhiều trường từ 30 - 40 sinh viên/giảng viên, có trường trên 50 sinh viên/giảng viên). Trong số 3.575 ngành đào tạo được khảo sát, có trên 500 ngành có tỷ lệ vượt quá 30 sinh viên/giảng viên, trong đó gần 100 ngành có tỷ lệ trên 100 sinh viên/giảng viên (chủ yếu ở khối ngành kinh tế, quản lý, luật và giáo dục).
Đặc biệt, tuyển sinh đào tạo Th.S tăng trưởng nóng, vượt năng lực, dẫn đến một số chuyên ngành quá tải trầm trọng về giảng viên hướng dẫn, kém chất lượng dẫn đến kiện cáo về chất lượng luận văn. Về đào tạo TS, trong năm 2014 có đến 89,13% hồ sơ thẩm định phải bổ sung, rút kinh nghiệm. Chất lượng luận án TS chưa cao. Học phí của đào tạo TS bình quân hiện nay là 15 triệu đồng/năm, còn thua cả học phí một trẻ học mẫu giáo thì làm sao có chất lượng được.
Cái yếu từ trong đã vậy thì cái yếu ở ngoài như tổ chức đào tạo liên thông, liên kết còn nhiều bất cập, không đúng quy định, không đảm bảo chất lượng, khiến dư luận bức xúc.
Đại học Quốc gia TPHCM sau 21 năm thành lập và phát triển vẫn chưa hoàn thành giải phóng mặt bằng
Nghiên cứu khoa học không xứng tầm
Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ mới đây đã phát biểu rằng: “Nói đến ĐH thì phải nói đến nghiên cứu khoa học. Nếu trường ĐH mà không có nghiên cứu thì không thể gọi là ĐH được”. Như vậy, một trường ĐH không chỉ có dạy và học chay, lý thuyết suông mà phải đẩy mạnh thực hành, nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, thực tế lâu nay, khâu nghiên cứu lại là khâu yếu thế nhất.
Nhìn vào thống kê, so sánh kết quả công trình nghiên cứu, bài báo khoa học công bố trên các tạp chí uy tín của thế giới, chúng ta lại càng chạnh lòng hơn. Trong giai đoạn 1970-2011, Việt Nam công bố 10.745 bài báo khoa học trên tập san quốc tế, chỉ bằng 22% so với Thái Lan, 11% của Singapore, 27% của Malaysia. Đáng nói hơn, tầm ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam ở mức thấp so với những nước vừa nêu. Trong tốp 400 trường ĐH hàng đầu thế giới, khu vực Đông Nam Á có 11 trường nhưng không có trường nào của Việt Nam.
Thử làm một so sánh về năng suất khoa học trong giai đoạn 2009-2013, dựa theo số bài báo trên các tạp chí khoa học uy tín của thế giới sẽ thấy rõ chúng ta đang ở đâu. Theo thống kê, trong 6 quốc gia gồm Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonesia, Singapore (nguồn số liệu là từ ISI Web of Science) thời gian 2009-2013, Việt Nam công bố được 7.227 bài báo, trong khi đó Thái Lan công bố được 27.200 bài (cao hơn Việt Nam 3,8 lần), Malaysia 33.472 (cao hơn Việt Nam 4,6 lần). Singapore thì cao nhất trong nhóm. Việt Nam chỉ hơn được Indonesia và Philippines.
Trong 10 lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu, ngoài ngành y sinh, lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam là toán, lý và hóa. Nhưng các nước phát triển hơn Việt Nam như Thái Lan, Malaysia và Singapore thì lĩnh vực hàng đầu là kỹ thuật, khoa học vật liệu và hóa. Tuy toán học không phải là lĩnh vực mạnh của Singapore và Thái Lan nhưng số bài báo về toán học của 2 nước này vẫn cao hơn số bài báo Toán học của Việt Nam.
THANH HÙNG