Cây tràm - đừng vội chặt bỏ

Nhà máy chế biến gỗ tràm Long An sẽ hoạt động năm 2009
Cây tràm - đừng vội chặt bỏ

Từ những năm cuối thập niên 1990, tại một hội thảo về cây tràm vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), khi giá tràm đứng ở mức cao (khoảng 80 triệu đồng/ha), nhiều chuyên gia đã cảnh báo về việc diện tích rừng tràm sẽ tăng mạnh trong thời gian sau đó.

Theo các ý kiến này, nếu chia bình quân từ khi trồng đến thu hoạch khoảng 6-7 năm thì người trồng tràm sẽ có thu nhập khoảng 12-13 triệu đồng/ha/năm (cao hơn trồng lúa). Đúng như dự báo, chỉ vài năm, diện tích rừng tràm do dân trồng tăng “nóng” lên gần 200.000 ha.

Trong đó, giai đoạn từ 1997 đến năm 2003, có lúc người dân Long An trồng mới đến 4.000-5.000ha/năm, Cà Mau cũng không “kém cạnh” với 4.000ha/năm và Sóc Trăng 2.000ha/năm. Chưa kể, con số không nhỏ từ nhiều địa phương khác.

Cây tràm - đừng vội chặt bỏ ảnh 1

Nông dân Đồng Tháp phá bỏ rừng tràm. Ảnh: H.P.L.

Điều lo ngại mà các chuyên gia nêu trong cảnh báo lúc đó là vấn đề sử dụng cây tràm. Lúc bấy giờ, cây tràm hầu như chỉ dùng để làm cừ tràm trong xây dựng, chế biến tràm làm than không đáng kể và điều quan trọng là chưa thể làm nguyên liệu gỗ chế biến.

Từ năm 2003 trở lại đây, nhu cầu tràm sử dụng cho xây dựng giảm dần, do đã chuyển qua sử dụng trụ bê tông, dẫn đến tình trạng dư thừa tràm. Vì vậy, bất chấp tình hình trượt giá – cái gì cũng có thể tăng giá, 1 ha tràm thu hoạch đầu năm 2008 chỉ còn 15-20 triệu đồng/ha (thu nhập chỉ khoảng từ 1,5 triệu đến hơn 2 triệu đồng/ha/năm), trong khi giá lúa lại tăng rất cao, khoảng 20 chục triệu đồng/năm (lúa 2 vụ).

Lần này, lại có sự chuyển dịch từ cây tràm sang cây lúa hoặc cây trồng khác. Diện tích trồng tràm bắt đầu giảm mạnh trong năm nay. Long An, tỉnh có diện tích rừng tràm lớn nhất trong số 8 tỉnh vùng ĐBSCL hiện còn khoảng 58.000 ha so với năm 2006 là 60.881 ha (tổng diện tích rừng tràm kinh tế vùng ĐBSCL khoảng 135.000 ha); trong đó, huyện Thạnh Hóa từ đầu năm đến nay giảm khoảng 1.200 ha. Tỉnh Kiên Giang là địa phương có diện tích giảm mạnh nhất, khoảng 20.000 ha.

Trồng, chặt là chuyện thường xảy ra trong ngành nông nghiệp, nhưng với cây tràm vùng đất phèn, theo Tiến sĩ Mai Thành Phụng (Trung tâm Khuyến nông quốc gia), điều này hơi đặc biệt. Bởi nó không chỉ gây thiệt hại cho người trồng tràm. Tiến sĩ Mai Thành Phụng đề nghị cân nhắc thật kỹ khi có ý định chặt tràm trồng lúa vì kinh nghiệm cho thấy có khi chỉ đào một con kênh, môi trường đã thay đổi làm cá tôm chết hàng loạt và phải 7-8 năm sau mới khắc phục được.

Về “số phận” cây tràm, theo Tổng Giám đốc Tổng Công ty Lâm nghiệp Việt Nam (Vinafor) Phạm Quang Hiển, đến thời điểm này đã có một tín hiệu tốt. Đó là việc Vinafor đã thử nghiệm thành công việc dùng nguyên liệu tràm chế biến làm gỗ MDF. Không dừng lại ở việc thử nghiệm, nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước như Vinafor, Tập đoàn Sumimoto (Nhật Bản), Tập đoàn Công nghiệp Cao su VN, Công ty Tungkang (Trung Quốc)… đã đến ĐBSCL tìm kiếm cơ hội đầu tư, xây dựng nhà máy chế biến gỗ tràm.

Ông Nguyễn Quốc Lý, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Long An cho biết, có 3 công ty đang xúc tiến lập dự án đầu tư chế biến gỗ MDF từ tràm để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Tỉnh đã cấp phép cho nhà đầu tư trong nước là Vinafor. Việc khảo sát của nhà đầu tư đã hơn một năm nay nhưng hầu hết đều trong giai đoạn lập dự án với tiến độ rất chậm, chưa đi vào hoạt động.

Nghịch lý của cây tràm là đây. Khi cây tràm hầu như chỉ sử dụng cho xây dựng, cản mấy người dân cũng trồng, nên sau đó trở nên thừa. Bây giờ, khi đã có công nghệ làm nguyên liệu gỗ chế biến thì bà con lại đồng loạt chặt tràm (vì chưa thấy ai đến mua). Do đó, khi các nhà máy thật sự đi vào hoạt động, liệu rằng có còn nguyên liệu để chế biến nếu rừng tràm tiếp tục bị phá bỏ như tốc độ hiện nay?

Công Phiên

Nhà máy chế biến gỗ tràm Long An sẽ hoạt động năm 2009

Tổng Giám đốc Tổng Công ty Lâm sản Việt Nam (Vinafor) Phạm Quang Hiển đã khẳng định với chúng tôi như vậy.

- Xin ông cho biết, dự án này sẽ được xây dựng ở đâu, khi nào đi vào hoạt động?

Dự án nhà máy (NM) chế biến gỗ tràm được xây dựng tại xã Tân Đông, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An. Giai đoạn 1 sản xuất gỗ dăm sẽ hoạt động vào năm 2009. Sau đó, khoảng năm 2011, giai đoạn 2 của NM sẽ đưa vào chế biến gỗ ván MDF bằng nguyên liệu gỗ tràm mà Vinafor đã thử nghiệm thành công và cho kết quả tốt. Vốn đầu tư cho NM khoảng 350 tỷ đồng.

- Nếu đi vào hoạt động, nhu cầu về nguyên liệu của nhà máy có lớn không?

Nếu tính cả sản xuất gỗ dăm và chế biến gỗ ván ép MDF thì mỗi ngày NM cần khoảng 1.500 tấn. Như thế, riêng Long An, NM có thể cơ bản tiêu thụ hết gỗ tràm trong dân với giá ổn định quanh năm. Có thể có nhiều phương thức mua, tại ruộng hay tại NM, với giá mua dự kiến khoảng 500.000 - 550.000 đồng/tấn tại NM (giá thị trường hiện khoảng 450.000 đồng - 470.000 đồng/tấn).

Tỉnh đã quy hoạch cho Vinafor 17.000 ha vùng nguyên liệu và tổng công ty có chính sách hợp tác với nông dân để bà con yên tâm trồng tràm vì có nơi tiêu thụ. Hiện nay bà con trồng theo phương thức quảng canh. Chu kỳ canh tác dài, mất thời gian, nhưng năng suất thấp (khoảng 60-70 tấn/ha). Với phương thức thâm canh, không còn 9-10 năm mà rút xuống còn là 6 năm và năng suất cao trên 100-120 tấn/ha thay vì 60-70/tấn/ha.

- Theo ông, nếu dự án bị chậm trễ, khi đi vào hoạt động, liệu NM có gặp khó khăn về nguồn nguyên liệu không?

Thực tế dự án đã được triển khai, nhưng bắt đầu chế biến gỗ dăm là năm 2009. Vấn đề hiện nay là làm sao khẩn trương để có thể sớm tiêu thụ nguyên liệu, giải quyết đầu ra cho bà con. Chủ trương của chúng tôi là rất khẩn trương. Nhưng rõ ràng dự án còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, như tiến độ và chính sách giải phóng mặt bằng...

Đ.C.P.

Tin cùng chuyên mục