
Câu châm ngôn của nhà văn Pháp R.Bussy Rabutin: “Xa cách trong tình yêu như gió đối với lửa, nó thổi tắt ngọn lửa nhỏ nhưng thổi bùng ngọn lửa lớn” thật đúng với chuyện tình của Trung tướng Lê Nam Phong, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 1 với bà Võ Thị Hồng Mai, người phụ nữ trung hậu đảm đang.

Trung tướng Lê Nam Phong và vợ.
Sinh ra và lớn lên trong gia đình nông dân nghèo ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, mới 17 tuổi, chàng trai Lê Nam Phong (tên thật là Hoàng Lê Thống) đã tham gia lực lượng Vệ quốc đoàn, rồi Đại đoàn quân tiên phong… Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, anh luôn có mặt trong các trận đánh lớn như Hà Nam Ninh, Hòa Bình và các chiến dịch biên giới Điện Biên Phủ. Tuy còn trẻ nhưng Nam Phong đã nổi tiếng là đánh giặc giỏi, dường như anh sinh ra là để đánh giặc. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, anh được phân công trực tiếp chỉ huy đánh chiếm đồi Độc Lập, căn cứ điểm quan trọng của địch. Ngày ấy, anh cạo đầu trọc thề quyết chiến quyết thắng bọn thực dân Pháp xâm lược. Thấy thế, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gọi đơn vị anh là “Đại đội đầu trọc”. Sau mấy chục ngày đêm “khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt, máu trộn bùn non…”, anh cùng đồng đội chiếm được đồi Độc Lập, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội năm châu, chấn động địa cầu…
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, anh có mặt trong đoàn quân chiến thắng trở về thủ đô Hà Nội trong niềm vui như vỡ òa... Dịp này, anh được nghỉ phép 3 ngày để về thăm gia đình. Thấy chàng chiến binh oai hùng về thăm quê, các cô gái làng chạy đến nhìn anh với ánh mắt ngưỡng mộ. Giữa đông đảo các cô gái trẻ, anh lính tinh nghịch hỏi: “Ai muốn lấy tôi làm chồng thì giơ tay xung phong”. Một cô gái trẻ khoảng 17 tuổi nhanh nhảu giơ tay cao nhất và được anh “chấm” ngay. Hôm sau anh về xin phép cha mẹ sang nhà hỏi cưới cô làm vợ. Đến ngày thứ ba hết phép, anh dẫn cô lên đơn vị tổ chức lễ cưới. Tiệc cưới chỉ có bánh kẹo, nước trà và những người lính trong đơn vị nhưng vui vẻ và hạnh phúc ngập tràn. Chuyện cưới vợ của chàng chiến binh chỉ vỏn vẹn có 3 ngày, nhưng họ sống với nhau đến nay gần 60 năm. Ông ngắm bà rồi so sánh yêu: “Hồi đó, bà ấy làm gì có quần áo hoa như bây giờ, chỉ có váy đụp, quần thâm nhưng sao vẫn thấy đẹp và dễ thương lạ thường…”. Còn bà thì nói vui: Lúc đó ông ấy bảo “ai hát thì giơ tay lên” chứ không phải như ông ấy kể đâu…
Sống gần vợ vài tháng, anh ra nước ngoài học quân sự, thỉnh thoảng mới về thăm nhà. Rồi những đứa con lần lượt ra đời nhưng đều do một tay người vợ lo toan. Khi đứa con út chưa đầy 6 tháng tuổi, anh nhận lệnh vào Nam chiến đấu. Suốt gần 12 năm trời ròng rã, anh mải miết tham gia hết trận đánh này đến trận đánh khác đến nỗi không còn thời gian để viết thư cho vợ mà đành chôn chặt tình riêng trong lòng. Ở hậu phương, dù bặt tin chồng nhưng người vợ vẫn một lòng chờ đợi…
Đến Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, anh lính đầu trọc ở đồi Độc Lập năm xưa đã trở thành vị Tư lệnh Sư đoàn 7 thuộc Quân đoàn 4 đầy tài ba và dày dạn kinh nghiệm chiến trường. Ông trực tiếp chỉ huy đánh chiếm giải phóng thị xã Xuân Lộc (nay là thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai), phá tan cánh cửa thép Xuân Lộc mở cửa cho đại quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn. Sau giải phóng, ông được sum họp với gia đình nhưng công việc cứ cuốn ông đi khiến ông không đủ thời gian dành trọn cho vợ con. Cho tới nay, tuy đã 86 tuổi nhưng ông luôn bận rộn với công việc. Ông đang đảm trách tới 12 chức trưởng ban liên lạc để làm cầu nối yêu thương với đồng đội. Ông như cánh chim không mỏi bay đi suốt khiến bà vẫn phải chờ đợi. Bà tâm sự: “Cưới nhau gần 60 năm nhưng thời gian sống gần nhau chẳng được bao nhiêu. Ông ấy vì việc nước, việc dân thì mình phải thông cảm…”. Còn ông thì không giấu được tình cảm: “Nhờ bà ấy gánh vác công việc gia đình, nuôi dạy con tốt nên tôi mới yên tâm công tác, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao…”.
Minh Ngọc