Tranh cử tổng thống Mỹ

Cuộc chạy đua của các đại gia kinh tế

Cuộc chạy đua của các đại gia kinh tế

Thực tế quan hệ giữa các ông chủ Nhà Trắng và các đại gia kinh tế Mỹ từ lâu đã không còn là chuyện mới. Về mặt vận động hành lang trong chính trị, các trùm tư bản Mỹ luôn được xếp vào trình độ và qui mô hàng đầu thế giới. Và cuộc đua vào Nhà Trắng trong năm nay cũng không phải là một ngoại lệ. Trong khi đương kim Tổng thống Bush nhận được sự hậu thuẫn từ các trùm tư bản tài chính thì ứng cử viên John Kerry lại có được sự tài trợ của các công ty công nghệ cao và giới luật sư…

Cuộc chạy đua của các đại gia kinh tế ảnh 1

Các nhân vật chính trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng đã bước vào giai đoạn nước rút với những đòn tố cáo nhau về chuyện tham nhũng. Như ứng cử viên cho cương vị phó tổng thống từ phe Dân chủ John Edward khẳng định, George Bush luôn đặt quyền lợi của các đại gia tư bản lên trên quyền lợi của người dân lao động Mỹ.

Họ đã chuẩn bị nguyên một bản báo cáo về đề tài này, chỉ rõ mối liên hệ trực tiếp giữa những khoản tiền đóng góp của các tập đoàn lớn vào quỹ tranh cử của đảng Cộng hòa với những đặc quyền các công ty này nhận được từ chính phủ hiện hành.

Đáp trả lại, phía ban bầu cử của Bush gọi đây là trò “đạo đức giả”. Theo lời của đại diện Steve Schmidt từ ủy ban thuộc phe Cộng hòa, phía Dân chủ tốt nhất là nên im đi, bởi vì thượng nghị sĩ John Kerry trong nhiều năm tại quốc hội đã nhận được nhiều tiền quyên góp từ các nhà vận động hành lang hơn bất cứ một đồng nghiệp nào khác của ông ta.

Thông tin về nguồn tiền bạc đang chảy vào quỹ tranh cử của các ứng cử viên đã khiến cử tri Mỹ phải hết sức phân vân.

  • George Bush – “người tình của Wall-Street”

Ông chủ hiện thời của Nhà Trắng từ lâu đã có nhiều mối quan hệ qua lại thân cận với giới tư bản kinh tế hàng đầu. Và tất nhiên, đây đều là những quan hệ “có lợi cả đôi bên”.

Ví dụ như các tập đoàn khai thác và chế biến gỗ đã ủng hộ vào quỹ tranh cử của George Bush 1,5 triệu đôla để giành được quyền đốn cây mà không phải chịu sự giám sát nào từ phía các cơ quan thanh tra môi trường liên bang. Giới kinh doanh nhà hàng góp cho Bush 1,2 triệu đôla, nhờ đó đã ém nhẹm đạo luật cấm hút thuốc tại các điểm ăn uống công cộng...

Cuộc chạy đua của các đại gia kinh tế ảnh 2

Đó chỉ là một vài yếu tố có trong bản báo cáo mang tính vạch trần của phe Dân chủ. Nhưng đó không còn là chuyện quá bất ngờ đối với công luận Mỹ. Những cuộc điều tra tương tự được tiến hành trong bất cứ một quá trình tranh cử tổng thống nào từ cuối thế kỷ XIX đều cho thấy, người cung cấp tiền chính cho quỹ tranh cử của các ứng cử viên đều là các trùm tư bản hàng đầu.

Điểm khác biệt trong các cuộc tranh cử gần đây chỉ là ở chỗ, các ứng cử viên đã biết vận động vào quỹ của mình những khoản tiền lớn chưa từng có.

Cả hai đối thủ hiện nay – Bush và Kerry – đều từ chối những chi phí trợ giúp từ phía liên bang, nên họ không bị hạn chế hay ràng buộc về những khoản tiền quyên góp có được, cũng như cả việc chi tiêu chúng. Kerry đã thu thập được 187 triệu đôla, một mức kỷ lục đối với phe Dân chủ. Còn George Bush lại lập được một kỷ lục tuyệt đối trong toàn bộ lịch sử các cuộc tranh cử tổng thống Mỹ – 229 triệu đôla!

Trong chiến dịch tranh cử năm 2000, chỗ dựa của Bush chính là ngành kinh doanh dầu hỏa và năng lượng. Nhưng kể từ khi trong nền tảng tài chính trong chiến dịch tranh cử của Bush, theo cách diễn giải của một chuyên gia ở Washington, “diễn ra những biến đổi mang tính kiến tạo – đương kim tổng thống đã trở thành một nhân vật con cưng của Wall-Street”.

Cụ thể như tập đoàn thẻ tín dụng MBNA ngay từ tháng 3 qua đã vượt qua kỷ lục của Enron trước đây với số tiền quyên góp cho Bush là 605.041 USD. Trong danh sách những nhà quyên góp lớn nhất cho đương kim tổng thống còn có mặt những cơ sở tài chính và đầu tư hàng đầu của Mỹ: Morgan Stanley, Merril Lynch, PricewaterhouseCoopers, Goldman Sachs, Credit Suisse First Boston, Bear Stearns, Ctigroup, Bank of America.

Giới lãnh đạo một loạt các tập đoàn lớn – khác với trước kia thường né tránh việc đích thân tham gia vào việc quyên tiền cho các ứng cử viên chính trị – giờ đây lại luôn thể hiện sự tích cực chưa từng có, hầu như tất cả đều có mặt trong danh sách gọi là “superrangers”, có nghĩa là những thành phần đích thân đóng góp được từ 300 ngàn đôla trở lên. Tính chung, các công ty tài chính và đầu tư cùng các hãng buôn bán bất động sản đã mang đến cho Bush tổng cộng 20,6 triệu đôla.

Một vài nhà tài trợ hàng đầu đã được nhận ngay những “món quà” từ chính quyền Bush. Cụ thể như Ủy ban phụ trách thông tin liên lạc liên bang đã cho phép trùm tư bản về truyền thông Garrold Perenchio (chủ nhân kênh truyền hình tiếng Tây Ban Nha Univision) mua lại công ty Hispanic Broadcasting Corp.

Vụ giao dịch đáng ngờ trên cơ sở đạo luật chống độc quyền này đã cho phép Perenchio mở rộng đáng kể ảnh hưởng của mình. Một “ranger” nổi tiếng khác là William Davitt đã được nhận từ tổng thống một vị trí danh dự trong hội đồng cố vấn về tình báo. Và bản danh sách này nếu liệt kê chi tiết vẫn còn rất dài.

Nhưng nguyên nhân chính dẫn tới “tình yêu” của các nhà tài chính đối với ông chủ Nhà Trắng không phải là những ơn huệ riêng lẻ hay những vị trí danh dự như kiểu trên, mà là những yếu tố cơ bản trong chính sách kinh tế của ông Bush. Trước tiên phải kể đến chính sách giảm thuế đã làm lợi trước hết cho các tập đoàn tài chính và những cổ đông lớn nhất của họ, cụ thể là giúp tăng số vốn và lợi tức cổ phần.

Ngoài ra, việc thay đổi hệ thống đánh thuế bất động sản còn cho phép chủ nhân tương lai của những khu đất, biệt thự và căn hộ sang trọng tránh được việc phải trả những khoản tiền thuế lớn khi được thừa kế. Theo các đánh giá của Ủy ban thuế trong quốc hội Mỹ, do việc giảm thuế bất động sản mà trong vòng 10 năm tới, ngân sách liên bang sẽ bị thất thu 133 tỷ đôla. Còn việc giảm thuế khi tăng vốn và thuế lợi tức cổ phần sẽ làm ngân sách mất thêm 125 triệu đôla nữa cho đến năm 2010.

  • Đâu là nguồn hậu thuẫn tài chính của John Kerry?

Vấn đề thuế trên thực tế đang làm cho cử tri Mỹ quan tâm nhiều hơn cả cuộc chiến tại Iraq. Đây cũng là chủ đề chính liên quan đến những cuộc đấu khẩu trước khi bầu cử của cả hai bên. John Kerry khẳng định, nếu thắng cử sẽ xóa bỏ một phần đáng kể những đặc quyền về thuế dưới thời Bush và sẽ tập trung vào việc thu tiền nhiều hơn từ tầng lớp giàu có.

Cuộc chạy đua của các đại gia kinh tế ảnh 3

Cuộc chạy đua giữa Bush - Kerry cũng là cuộc chạy đua của các trùm tài phiệt Mỹ.

Đó là lý do khiến các trùm tài phiệt ở Wall-Street không mặn mà với ứng cử viên này, cũng như việc quyên góp cho quỹ tranh cử của ông ta. Cho dù trong danh sách các nhà tài trợ của Kerry cũng có mặt gần như tất cả các tập đoàn tài chính đang ủng hộ cho Bush. Có điều là số tiền quyên góp của họ trên thực tế ít hơn đáng kể.

Theo đánh giá, chỗ dựa chính của Kerry hiện nay chính là lĩnh vực mà nhân vật liên minh Edward của ông ta đang làm – kinh doanh về pháp lý. Thời gian gần đây, giới luật sư Mỹ đã kiếm được bộn tiền xung quanh những vụ kiện tập thể chống lại các tập đoàn lớn nhất, đặc biệt là về thuốc lá và đồ ăn. Chính vì vậy, các luật sư rất tích cực cung cấp tài chính cho chiến dịch tranh cử của ứng cử viên đảng Dân chủ.

Các hãng luật khắp nơi trên đất Mỹ đã thu thập cho John Kerry khoảng 13,5 triệu đôla, nhiều hơn bất kỳ một lĩnh vực nào khác. Đi đầu trong việc ủng hộ Kerry còn phải kể đến các tổ chức giáo dục. Chỉ riêng hai trường đại học tổng hợp Harvard và California đã quyên góp cho ông ta hơn 600 ngàn đôla. Các trường đại học Stanford, Michigan và Columbia cũng quyên góp được hơn 100 ngàn đôla.

Nhưng John Kerry cũng có những người ủng hộ mình trong số các trùm tư bản. Trước tiên, phải kể đến các hãng sản xuất trong lĩnh vực công nghệ cao và viễn thông. Những đặc quyền về thuế do chính quyền Bush ban tặng không khiến cho họ được hưởng lợi nhiều như các quỹ đầu tư hay công ty buôn bán bất động sản. Một số nhà tài trợ hàng đầu cho quỹ tranh cử của Kerry phải kể đến các tập đoàn như Microsoft (133.543 USD), Time Warner (200.589 USD), Viacom (123.396 USD) và IBM (109.590 USD).

Đó là lý do khiến những lời buộc tội của phe Dân chủ nhằm vào bộ sậu của Bush về việc dung túng cho quyền lợi của các trùm tư bản có vẻ không quá thuyết phục. Thực tế này cho thấy, các tập đoàn tư bản lớn nhất nước Mỹ đơn giản chỉ là phân chia “thị trường chính trị” với nhau. Các con số tài chính liên quan đến chiến dịch tranh cử đã chứng tỏ, những nỗ lực giảm bớt ảnh hưởng của giới kinh doanh đối với các chiến dịch bầu cử tại Mỹ chỉ là chuyện viển vông.

ĐINH LINH

Tin cùng chuyên mục