
Sinh năm 1955. Quê Nam Định. Năm 1974 nhập ngũ . Đầu năm 1975 làm nhiệm vụ gỡ phá bom, mìn tại Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng… Tốt nghiệp Trường Sĩ quan Chính trị Bộ Quốc phòng, Khoa Sử Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1981, về công tác tại Báo Quân đội Nhân dân. Hiện là Đại tá, Trưởng ban đại diện phía Nam của Báo QĐND.
Đào Văn Sử: nhà báo, nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ nhiếp ảnh, luật gia.

Đậm người, da bánh mật, rắn chắc như gốc tre, nụ cười chừng mực đôn hậu, chia sẻ và đón nhận… Đào Văn Sử chiếm được cảm tình ngay khi mới gặp anh. Nếu anh không bận quân phục với hàm đại tá, người ta cứ nghĩ anh là một nông dân cường tráng, một công nhân cần mẫn.
Chất nghệ sĩ của đại tá Đào Văn Sử quyện chặt vào tư chất anh bộ đội Cụ Hồ. Sau những đợt ra Trường Sa, anh vẽ chân dung đồng đội mình giữa đại dương, qua bài thơ Chẳng giữ gì riêng: “Tôi chụp tặng anh tấm ảnh/đứng bên cột mốc chủ quyền/súng thép chạm vành mũ sắt/da ngăm, mắt sáng hồn nhiên”… “Mẹ cha dầm mình cày cuốc/nước phèn cứa nứt làn da”… “Anh cùng đồng đội giữ đảo/chẳng giữ gì riêng cho mình”… Anh gởi tình cảm mình qua bài hát Tình đảo xa: “Vượt ngàn trùng xa, những cánh thư nhà, tới đảo... Đảo xa ấy là nhà. Biển cả ấy là quê hương…”. Sau chuyến đi ấy, anh tổ chức triển lãm ảnh riêng của mình, với tiêu đề Trường Sa… không xa.
Và cũng từ chuyến đi Trường Sa, anh có một loạt bài phóng sự về Trường Sa và người lính đảo, anh bộ đội gìn giữ biên thùy. Người ta thấy ở nhà báo, nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ nhiếp ảnh Đào Văn Sử là 4 “nhà” trong một người và 100% tính cách quân nhân trong tâm hồn.
Gia đình nhỏ của anh cũng là gia đình bộ đội. Vợ anh, chị Nguyễn Thị Trà My, là nhân viên quốc phòng, con gái lớn làm cán bộ thanh tra, con trai đang học Trường Sĩ quan Thông tin. Cũng như tất cả cánh lính, người lao động, Đào Văn Sử kể chuyện tiếu lâm, “nói trạng” tưng tửng rất có duyên.
Chính vì cách sống và tính cách chân thành, hết mình, Đào Văn Sử nói về người khác bao giờ cũng trân trọng và cầu thị. Khi nhắc đến nhạc sĩ Tô Hải, người thầy dạy nhạc của mình, Đào Văn Sử nói: “Bác Tô Hải là nhạc sĩ đầy chất nghệ sĩ, đồng thời là nhà sư phạm tài năng. Trong nhạc của ông chất nghệ sĩ không lẫn được và không học được. Ông dạy tôi âm nhạc nhưng không bao giờ ông can thiệp vào giai điệu của học trò, mà chỉ hướng dẫn, gợi mở…”.
Viết báo, làm thơ, chụp ảnh, soạn nhạc… tính thời sự nóng bỏng luôn là yêu cầu, mục đích của Đào Văn Sử. Chính nhờ bám sát thời sự, bám sát địa bàn, lăn lộn với cuộc sống và trách nhiệm người lính, Đào Văn Sử miệt mài tự học để hoàn thiện mình.
Còn nhớ, những ngày đầu năm 1975, vừa ra trận, anh lính rà phá bom mìn đã cặm cụi, ngụp lặn dưới dòng sông Bồ, sông Hương để tìm cho được bom mìn kẻ thù thua chạy gài lại. Chính tại Phong Điền (Thừa Thiên – Huế) anh cùng đồng đội đã tìm, phá, tiêu hủy hàng ngàn trái mìn, bom của kẻ thù, góp phần mang lại sự yên bình cho nhân dân vùng mới giải phóng.
Đã là lính là gian nan, cực khổ, nhưng lính phá bom mìn thì luôn đứng trước sự sống và cái chết. Đào Văn Sử cười thật tươi “Ai cũng nói sông Hương đẹp và thơ. Tháng 3-1975, Huế mới giải phóng, sông Hương như một bãi rác mà lại là bãi rác nước chiến tranh, thì mới khủng khiếp. Thế mà đội phá bom mìn chúng tôi, cứ ngày đêm lặn ngụp dưới đó, tìm kiếm mìn ở các trụ cầu Tràng Tiền, Bạch Hổ. Bây giờ nhớ lại thấy hãi mà vui!”.

Đào Văn Sử cùng các em nhỏ dân tộc thiểu số tại Sa Pa trong chuyến công tác của Đoàn nhạc sĩ TPHCM.
Đào Văn Sử không phải là hiện tượng hiếm, lạ. Nhưng 1 trong 4 của anh, 100% là anh bộ đội ở Đào Văn Sử thì tạo ấn tượng và tự hào. Có nền tảng vững chắc, gia đình có truyền thống cách mạng, xung phong vào bộ độ lúc 19 tuổi trong những ngày cuối của cuộc kháng chiến ác liệt, là lính cảm tử phá bom mìn…
Khi hòa bình Đào Văn Sử vẫn là lính - Lính văn nghệ, đòi hỏi phải hoàn thiện mình. Anh được đi học và tự học. Trường đại học không đào tạo anh thành nghệ sĩ. Với sự đam mê bẩm sinh và trách nhiệm với nhân dân, đồng đội của người lính, Đào Văn Sử đã trở thành nghệ sĩ - chiến sĩ. Đào Văn Sử tâm sự: “Bây giờ đời sống của bộ đội có khá hơn, có nhiều điều kiện hơn, nhưng xét trên mặt bằng xã hội thì bộ đội ta còn đói về đời sống tinh thần”. Có lẽ vậy chăng mà anh lính Đào Văn Sử trở thành nhà báo, nhạc sĩ, nghệ sĩ nhiếp ảnh và ham làm thơ như thế?
Những ngày này, tôi biết anh đang tất bật cho việc tổ chức kỷ niệm 15 năm thành lập Câu lạc bộ Nhiếp ảnh Chiến sĩ - CLB do anh cùng một số đồng đội sáng lập ra nhằm tập hợp các nghệ sĩ nhiếp ảnh quân đội và những người lính yêu thích nghệ thuật nhiếp ảnh. 15 năm qua, năm nào CLB cũng tổ chức nhiều triển lãm ảnh đẹp và ý nghĩa. Đây là CLB nhiếp ảnh duy nhất của nước ta, có thành viên là những người đã và đang mặc áo lính – quân hàm từ cấp úy đến cấp tướng.
Đi và sáng tác. Ấy là cuộc sống hàng ngày của Đào Văn Sử. Nơi nào xa xôi nhất, nóng bỏng nhất đều có bước chân và tác phẩm của anh. Những năm qua, anh đã nhận nhiều giải thưởng báo chí quốc gia. Riêng năm nay anh nhận hai giải thưởng về nhiếp ảnh. Năm ngoái anh được nhận giải thưởng toàn quốc về ca khúc thiếu nhi của Hội Nhạc sĩ Việt Nam.
Trò chuyện với anh, chúng tôi nhắc đến bản hợp xướng Tiếng hát biên thùy của nhạc sĩ Tô Hải. Đó là một bản giao hưởng hợp xướng đầu tiên của nước ta viết về Lực lượng vũ trang, thực sự hoành tráng về người lính biên thùy. Phải chăng từ sự kính trọng thầy dạy nhạc của mình và với tư cách người lính, Đào Văn Sử thành công trong những đề tài về biên giới và hải đảo.
Xin trích vài câu thơ của Đào Văn Sử để thêm hiểu, thêm yêu anh bộ đội Cụ Hồ – nặng ân nghĩa và đậm chất trữ tình lãng mạn: “Tình ta xanh, mái tóc chẳng còn xanh/Nhuộm nắng lửa cuộc đời khuya sớm/Hoa khô ơi ẩn giữ tình nồng đượm/Nói hộ thời son trẻ sống cho nhau”.
VŨ ÂN THY