
Lược ghi tham luận của đồng chí Nguyễn Thành Phong (ảnh), Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TPHCM, thay mặt đoàn đại biểu TPHCM trình bày vào sáng 22-1, tại Đại hội lần thứ XII của Đảng.

Thể hiện sự nhất trí cao với những mục tiêu và giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh được đề ra trong các Văn kiện trình Đại hội XII, Đoàn đại biểu Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh nhấn mạnh năm nội dung chính yếu trong việc định hình các giải pháp về nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh.
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là nội dung cốt lõi nhất để thúc đẩy nâng cao chất lượng tăng trưởng. Sự chuyển hướng ưu tiên cho chất lượng tăng trưởng sẽ tập trung vào sử dụng toàn diện và hiệu quả các nguồn lực, đảm bảo an sinh xã hội và các khuôn khổ thể chế cho một nền tảng quản trị tốt. Các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng rất đa dạng, bao quát trên nhiều khía cạnh, từ nâng cao sự đóng góp của khoa học công nghệ đến chất lượng nguồn nhân lực; từ phát triển các ngành có giá trị gia tăng cao đến phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng, đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa và an sinh xã hội; từ giữ vững tốc độ tăng trưởng cao và bền vững đến đảm bảo các chỉ tiêu về chất lượng cuộc sống, chăm lo đời sống nhân dân.
Chính những ràng buộc về cơ chế vận hành trong các điều kiện cụ thể về nguồn lực, về môi trường, về các ngành có giá trị gia tăng cao, về phát triển khoa học công nghệ, về nâng cao năng suất... là những yếu tố tạo nên những động cơ cho tăng trưởng, quyết định khoảng cách giữa chủ trương và hiện thực. Các giải pháp về nâng cao chất lượng tăng trưởng phải khơi thông các tắc nghẽn trong cơ chế ngành và liên ngành, hình thành các động cơ khuyến khích, tích hợp các chiến lược sử dụng hiệu quả và huy động các nguồn lực trong xã hội.
Trong những năm qua, những ràng buộc về tính thống nhất của thể chế chưa cho phép thành phố Hồ Chí Minh thật sự khai thác, phát huy tối đa lợi thế, tiềm năng phát triển, phù hợp với điều kiện đặc thù của một đô thị đặc biệt và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Vì vậy, trong thiết kế cơ chế, chính sách rất cần chú trọng vào hình thành các động lực, phù hợp với điều kiện từng vùng, miền; tạo không gian chủ động cho các địa phương.
Quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN cần tạo đột phá trong cải cách hành chính và tài chính công; quy định minh bạch ba cơ chế về phân quyền, phân cấp và ủy quyền cho địa phương; đồng thời tạo cơ chế để tăng cường hiệu lực kiểm tra, thanh tra của Chính phủ đối với chính quyền địa phương; trong đó nghiên cứu tập trung hơn nữa vào các nhiệm vụ gồm: hoạch định chính sách, ban hành các quy định và kiểm tra, giám sát, chế tài vi phạm.
Thứ hai, phát huy vai trò động lực của các đô thị để nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh. Động lực cho chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nằm ở các vùng kinh tế trọng điểm, trong đó có các đô thị. Tuy nhiên, hệ thống cơ chế, chính sách quản lý đô thị và cơ chế liên kết vùng nhìn chung không theo kịp yêu cầu phát triển. Các loại quy hoạch theo chức năng và không gian hiện có nhiều về số lượng, nhưng vai trò còn hạn chế trong nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh, thể hiện qua kết quả phát triển, liên kết vùng còn hạn chế, nguồn lực phân tán và không phát huy được hiệu quả kinh tế theo quy mô, các vấn đề đô thị xử lý theo lợi ích riêng lẻ của từng địa phương. Các tỉnh, thành trước sức ép tăng trưởng và thu hút vốn đầu tư thường thông qua những biện pháp phía cung để thúc đẩy kinh tế; sự lan tỏa và giao thoa tích cực về kinh tế không được tận dụng triệt để.
Thứ ba, nâng cao năng suất lao động, tích tụ và lan tỏa tri thức là tác nhân quan trọng nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh. Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới chính sách để khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nâng cao năng suất thông qua hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị, phát triển các kết nối giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tại địa phương, nâng cao chất lượng quản trị của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tập trung thu hút có chọn lọc đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào những ngành có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, những ngành sản xuất thân thiện môi trường, công nghiệp xanh. Khuyến khích, tạo điều kiện để các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đổi mới công nghệ; khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động sáng tạo công nghệ đối với cá nhân các nhà khoa học, đồng thời khuyến khích hình thành các vườn ươm doanh nghiệp công nghệ, vườn ươm công nghệ cao thương mại điện tử… khuyến khích hình thành nhiều doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Nghiên cứu đổi mới chính sách tài trợ của Nhà nước cho khoa học và công nghệ chuyển từ việc bao cấp ở đầu vào sang tài trợ đầu ra đối với sản phẩm khoa học và công nghệ. Sử dụng hiệu quả công cụ chính sách kinh tế - tài chính để thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nội bộ các ngành kinh tế; tiếp tục đổi mới các chính sách về thuế, phí đất đai, đầu tư công, cung ứng dịch vụ công... nhằm khuyến khích có điều kiện để thúc đẩy các doanh nghiệp tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm và hình thành những “cụm liên kết sản xuất”.
Thứ tư, sử dụng hội nhập quốc tế như động lực để nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh. Hội nhập không phải là mục tiêu, mà là phương tiện để phục vụ đổi mới toàn diện và phát triển đất nước. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế, phát huy tối đa nội lực để tạo ra sự đột phá trong nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh, bảo vệ nền sản xuất trong nước. Tích cực, chủ động về mọi mặt, quán triệt tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân để nhận thức về các cơ hội mới, vận hội mới, chuẩn bị tốt nguồn lực và năng lực để đương đầu thắng lợi với các thách thức mới. Chủ động tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, có phẩm chất, bản lĩnh chính trị, năng lực để đáp ứng với yêu cầu phát triển và hội nhập.
Nâng cao chất lượng tăng trưởng phải đi đôi với quá trình hoàn thiện và phát triển dần năng lực cung ứng các dịch vụ công cho nhân dân, đảm bảo khả năng tiếp cận ngày càng tốt hơn của người dân đối với các dịch vụ cơ bản có chất lượng; sự tham gia của nhân dân trong quy trình ra các quyết định về chính sách; tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý Nhà nước trong các quyết định về chính sách, quản lý, điều hành; đảm bảo sự an toàn về môi trường, an ninh, sức khỏe của nhân dân.
Thứ năm, tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo an sinh xã hội, nhằm nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân trong những lĩnh vực thiết yếu như: phát triển ngành y tế hiện đại, kỹ thuật cao đáp ứng tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân, giảm bớt tình trạng quá tải ở các bệnh viện; đầu tư và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống y tế cơ sở; tập trung bảo vệ môi trường, giảm thiểu, thích nghi với biến đổi khí hậu; đầu tư, hoàn thiện hệ thống cung cấp nước sạch; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm; giải quyết tốt các vấn đề bức xúc của xã hội, tạo điều kiện để mọi người đều có việc làm và thu nhập ổn định, thực hiện giảm nghèo bền vững; gắn phát triển kinh tế với thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo cho mọi người dân công bằng trong tiếp cận giáo dục, y tế, văn hóa, thụ hưởng các thành quả phát triển kinh tế, thành tựu của sự nghiệp đổi mới.
Với tinh thần “Vì cả nước, cùng cả nước”, TPHCM luôn xác định trách nhiệm cao với cả nước, phát huy truyền thống yêu nước, cách mạng, đoàn kết, năng động, sáng tạo, huy động mọi nguồn lực, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, quyết tâm hoàn thành mục tiêu Đại hội X Đảng bộ thành phố đề ra, tạo sự đột phá trong nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của kinh tế thành phố, không ngừng nâng cao chất lượng sống của nhân dân, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.