Kinh doanh lữ hành thời “hậu WTO”

Chúng ta sẽ được và mất gì?
Kinh doanh lữ hành thời “hậu WTO”

Gần như tất cả các doanh nghiệp lữ hành trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh khi được hỏi đều ví von rằng gia nhập WTO cũng giống như đi thuyền ra biển lớn. Điều đó có nghĩa là họ chỉ còn rất ít thời gian để chuẩn bị cho thuyền “rẽ sóng ra khơi”. Tuy nhiên, việc dự đoán một kịch bản cho thời kỳ hậu WTO xem ra không thừa bởi lẽ tất nhiên không ai ra khơi bằng một con thuyền cũ rích.

Thực ra, mọi vấn đề bàn luận về hậu WTO chủ yếu xoay quanh việc các công ty du lịch 100% vốn nước ngoài sẽ hoạt động tại Việt Nam. Điều gì sẽ diễn ra và nó sẽ diễn ra như thế nào? Chúng ta có thể dự đoán như sau:

Kinh doanh lữ hành thời “hậu WTO” ảnh 1
Khu di tích Mỹ Sơn là điểm đến không thể bỏ qua của du khách quốc tế khi đến Việt Nam.

Các công ty liên doanh không sớm thì muộn sẽ tách ra để thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Trước đây do chủ trương bảo hộ du lịch trong nước nên họ phải hoạt động dưới hình thức liên doanh. Sau thời gian hoạt động tại Việt Nam, họ đã nắm vững tình hình và tích lũy được nhiều kinh nghiệm. Do vậy, khi Việt Nam tháo gỡ rào cản bảo hộ thì tại sao họ lại phải liên doanh khi mà các điều kiện cần và đủ để hoạt động độc lập đều đã có sẵn.

Cùng với sự chuyển đổi của các công ty liên doanh là sự xuất hiện các công ty 100% vốn nước ngoài mới tại các thị trường trọng điểm: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Tiến trình này có thể diễn ra như sau:

Thời gian đầu chỉ có các doanh nghiệp nước ngoài với qui mô trung bình thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Căn cứ vào danh sách 10 nước có số lượng khách vào thành phố Hồ Chí Minh cao nhất thì những công ty nước ngoài thành lập đầu tiên sẽ từ các nước châu Á như Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Malaysia,… Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử nên trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có khả năng sẽ xuất hiện thêm những công ty con mà nguồn vốn do Việt kiều ở Mỹ cung cấp. Đây thực chất là những công ty gia đình, khai thác nguồn khách du lịch là Việt kiều đang sinh sống với số lượng khá lớn tại Mỹ.

Các tập đoàn du lịch lớn chưa xuất hiện vì họ phải hoạch định một chiến lược cụ thể khi thâm nhập vào một thị trường mới. Họ phải đánh giá tiềm năng của thị trường có xứng đáng để đầu tư hay không? Hay bước đầu chỉ cần liên kết với các doanh nghiệp trong nước là đủ. Và họ sẽ bám sát các diễn biến để khi hội đủ điều kiện thì thành lập công ty con ngay tại Việt Nam.

Tuy nhiên, một khả năng khác có thể xảy ra là các tập đoàn lớn sẽ có mặt ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO nếu chiến lược của họ chọn Việt Nam làm trung tâm, làm cầu nối để tổ chức các tour xuyên quốc gia bao gồm 3 nước Đông Dương, Thái Lan và Trung Quốc (Quảng Đông, Hồng Công, Macau).

Chúng ta sẽ được và mất gì?

Doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị cạnh tranh dữ dội vì những đối tác lớn từng hợp tác trước đó bây giờ sẽ trực tiếp đưa khách vào và tổ chức cho khách quốc tế đi tour tại Việt Nam (nhưng họ vẫn phải sử dụng hướng dẫn viên Việt Nam theo qui định của Luật Du lịch). Tình hình này dẫn đến việc các doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao hơn nữa tính chuyên nghiệp, có nhiều đối sách khác nhau trong kinh doanh, vươn ra nhiều thị trường,… để tồn tại. Trong quá trình cạnh tranh, một số doanh nghiệp nhỏ sẽ không chịu nổi và bị phá sản hoặc trở thành đại lý cho những công ty lớn. Tuy nhiên, còn một kịch bản khác là nếu họ tìm được những thị trường đặc thù thì vẫn có thể tồn tại và phát triển.

Một thiệt hại khác mà các công ty du lịch Việt Nam chắc chắn sẽ phải gánh chịu là tình trạng “chảy máu chất xám”. Với thế mạnh về tài chính, tính chuyên nghiệp và sự năng động trong kinh doanh, các công ty 100% vốn nước ngoài sẽ tìm cách thu hút những người “giỏi nhất” từ các công ty du lịch Việt Nam.

Lĩnh vực đưa du khách Việt đi du lịch nước ngòai và nội địa bị ảnh hưởng ít hơn vì đây không phải là thế mạnh của các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Thậm chí, khách du lịch nội địa có thể hưởng thụ dịch vụ có chất lượng cao hơn vì các khách sạn, xe, nhà hàng,… buộc phải nâng cấp dịch vụ mới có thể thu hút các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đưa khách đến.
Người được hưởng lợi nhiều nhất khi các công ty 100% vốn nước ngoài thành lập là khách sạn, nhà hàng, dịch vụ vận chuyển, các điểm vui chơi giải trí… vì du khách quốc tế vào càng nhiều thì nhu cầu sử dụng dịch vụ càng lớn. Vậy là sẽ xuất hiện một luồng vốn đầu tư mới hướng vào việc xây dựng khách sạn, nhà hàng nhằm đáp ứng yêu cầu cao hơn từ những công ty 100% vốn nước ngoài.

Cần chuẩn bị gì?

Kinh doanh lữ hành thời “hậu WTO” ảnh 2
Tour “home stay” sinh hoạt tại nhà dân rất hấp dẫn khách quốc tế khi đến miền Tây.

Hiện nay, các doanh nghiệp căn cứ vào thực trạng của đơn vị mình mà tự đề ra chiến lược, sách lược cụ thể cho sân chơi sắp mở. Tuy nhiên, sự chuẩn bị này còn mang tính chất riêng lẻ, chưa phải là định hướng chung, thiếu nhất quán, thiếu cái nhìn toàn cục, điều mà chỉ có các cơ quan lãnh đạo ngành, các nhà hoạch định chính sách mới đủ thông tin cần thiết để đề ra.

Ở cấp độ vĩ mô, vào tháng 4-2006, Tổng cục Du lịch đã công bố chương trình hành động quốc gia về du lịch giai đoạn từ 2006 – 2010. Tuy nhiên, việc gia nhập WTO sẽ là một nhân tố chi phối xuyên suốt giai đoạn này và những năm tiếp sau; Tổng cục Du lịch cần thiết phải có sự bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới.

Về phía thành phố Hồ Chí Minh, gần đây nhất, Sở Du lịch đã tổ chức hội nghị chuyên đề bàn về việc cải thiện sản phẩm city tour trên địa bàn thành phố. Đây là một bước chuẩn bị tích cực cho việc chuẩn bị hội nhập sân chơi mới nhưng có lẽ như vậy vẫn chưa đủ. Sở Du lịch và Hiệp hội Du lịch cần chỉ ra những định hướng cụ thể cho việc phát triển du lịch trên địa bàn thành phố. Bởi vì, việc gia nhập WTO chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến ngành du lịch cả nước, nhưng ở từng địa phương, từng lĩnh vực hoạt động mức độ ảnh hưởng sẽ có sự khác nhau. Và, các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn thành phố cho dù chuẩn bị tích cực đến đâu thì trên đại dương mênh mông vẫn rất cần một mục tiêu để mà hướng đến.

SƠN HÀ

Tin cùng chuyên mục