
Năm 1948, Trung ương phái tôi vào Nam công tác. Sau sáu tháng băng rừng, leo núi, vượt biển, lội bưng, tôi mới đến được Đồng Tháp Mười vào đầu năm 1949. Lúc đó Thường vụ Xứ ủy Nam bộ đóng trong nhà dân ở kinh Bảy Bồng, Đồng Tháp Mười. Anh Thượng Vũ nói với tôi chờ vài ngày mới gặp anh Lê Duẩn, một người lãnh đạo sáng suốt, kiến thức rộng, một nhà chiến lược… Cán bộ Nam bộ thường gọi anh là “Ngọn đèn 200 nến”.
Đúng hẹn làm việc, anh Ba đến kinh Bảy Bồng rất sớm. Anh bảo tôi cho biết về chiến sự khi quân Pháp đánh lên Việt Bắc, Quân giải phóng Trung Quốc Nam Hạ, về đường lối chính sách dân vận của Trung ương. Như một thí sinh “trúng tủ”, tôi thao thao trình bày về tình hình chiến sự, về đường lối quần chúng trong công tác dân vận đối với các dân tộc trong cộng đồng xã hội Việt Nam, v.v...

Nghe xong, anh Ba cười, chỉ thị cho tôi: “Anh chưa thể về Trung ương mà nên ở lại công tác ở Nam bộ một thời gian”. Lúc ăn cơm trưa anh Ba thân mật nói: “Anh là một người rất tự cao. Nói vậy nhưng tôi không có ý phê bình anh đâu, vì khi trình bày các vấn đề tôi thấy anh rất tự tin. Cái gì cũng có hai mặt: Tự tin thì tốt chứ không được tự cao!”. Anh Ba quả có nhận xét rất xác đáng về cán bộ. Chỉ qua một buổi nói chuyện ngắn, anh đã phát hiện và “tề” ngay nhược điểm lâu đời, khó sửa của tôi.
Tôi được phân công làm Trưởng ban Hoa vận và phụ trách Hoa kiều vụ Nam bộ. Chuyến công tác vào Nam bộ của tôi dự định hai năm trở ra Việt Bắc, nào ngờ đến nay, tôi đã sống và hoạt động nửa thế kỷ ở miền Nam. Nhưng nhờ vậy, tôi may mắn được làm việc với anh Ba trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Vì tôi vừa phụ trách công tác Hoa vận của Đảng lại vừa phụ trách Hoa kiều vụ của Chính phủ và có chân trong Ban Dân vận - Mặt trận Nam bộ nên tôi thường gặp anh Ba một tháng vài lần. Hầu như trên lĩnh vực nào anh Ba cũng nắm được tình hình và đưa ra những giải pháp thích đáng.
Nhớ lần đoàn Đại biểu Nam bộ đi Việt Bắc dự Đại hội Đảng lần thứ hai, anh Ba soạn thảo nhiều đề tài quan trọng của đất nước như vấn đề nông dân và ruộng đất; vấn đề Mặt trận Dân tộc thống nhất; vấn đề nắm giữ chính quyền... Những ý kiến mà sau này khi đọc các nghị quyết Đại hội Đảng, tôi đều thấy thể hiện trong đó.
Nét đặc biệt của cuộc kháng chiến Nam bộ thời chống Pháp là Đảng tập hợp được mọi tầng lớp, giai cấp, sử dụng nhiều nhân sĩ, trí thức có tên tuổi vào những chức danh quan trọng, đoàn kết được các tôn giáo cho công cuộc kháng chiến chống Pháp. Anh Ba là Xứ ủy, sau là Bí thư Trung ương Cục miền Nam nhưng lại nhận chức Trưởng phòng Dân quân Nam bộ, một chức danh không quan trọng, thể hiện sự chăm lo phong trào dân quân nên đã huy động được lực lượng quần chúng đông đảo dốc sức vào cuộc chiến toàn dân, toàn diện, giải phóng các vùng rộng lớn bằng một nửa các tỉnh Nam bộ.
Từ năm 1954 đến 1956, trong lúc hoạt động bí mật ở Sài Gòn, tôi vẫn biết anh Ba đang sống trong dân và chỉ đạo phong trào. Đến lúc đó, Mỹ-Diệm đã không thi hành Hiệp định Genève, đánh phá cách mạng miền Nam vô cùng ác liệt. Từ trong tình thế đen tối, anh đã tìm thấy ánh sáng bừng lên từ bức xúc vùng dậy của nhân dân. Anh đã kịp thời viết xong Đề cương cách mạng miền Nam. Tư tưởng chiến lược này chỉ ra cho nhân dân miền Nam con đường đứng lên giải phóng: “Phải lật đổ ngụy quyền bằng cả sức mạnh chính trị và bạo lực”.
Cuộc chiến tranh cách mạng nhân dân miền Nam thiên biến vạn hóa: trong chiến tranh, có đội quân tóc dài hàng vạn, hàng triệu người cản bước tiến của xe tăng pháo binh địch, trong đấu tranh chính trị ở thành phố lại có những cuộc chiến đấu võ trang đánh chiếm Sứ quán Mỹ, Dinh Tổng thống ngụy, đánh chìm tàu sân bay của Mỹ trên bến cảng Sài Gòn...
Về cuộc kháng chiến chống Mỹ, đồng chí Lê Duẩn nói: “Từ ấp Bắc, Mỹ thấy không thể thắng ta được, đến trận Bình Giã, Mỹ thấy rõ thua ta trong chiến tranh đặc biệt. “Từ chiến thắng Vạn Tường, Đảng ta thấy có thể thắng Mỹ trong chiến tranh cục bộ”. Sau cuộc Tổng công kích vào các đô thị miền Nam Tết Mậu Thân 1968, Mỹ buộc phải “Phi Mỹ hóa cuộc chiến tranh”. Cuộc tổng tấn công và nổi dậy trong chiến dịch mùa Xuân 1975 đã giành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong 30 năm, anh Ba đã dồn tất cả tâm huyết, trí tuệ vào hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Anh là người thực hiện chỉ đạo của Bác Hồ “Đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào!”. Anh cũng là người thực hiện mong muốn thiết tha của Bác “miền Nam là của Việt Nam”.
Nhân kỷ niệm 20 năm đồng chí Lê Duẩn mất, chúng ta không thể không nhắc đến lòng nhân hậu, trí tuệ sáng suốt, tài thao lược và công lao to lớn của Anh cống hiến vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Anh Ba Lê Duẩn thực sự là một nhà chiến lược thiên tài trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ giành thắng lợi trọn vẹn: Độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc.
PHẠM DÂN