
Tại sao quân Đồng minh không ném bom phá hủy các trại tập trung? Chính quyền các nước Đồng minh đã biết đến chính sách diệt chủng mà Đức Quốc Xã tiến hành từ khi nào và tại sao họ lại không ra lệnh ném bom phá hủy các trại tập trung tàn sát của Đức Quốc Xã? Hai câu hỏi hóc búa mới tạm có lời giải đáp qua cuốn sách Những bí mật chính thức của ông
Richard Breitman, một giáo sư lịch sử người Mỹ chuyên nghiên cứu về cuộc tàn sát người Do Thái tiến hành bởi Đức Quốc Xã. Để hoàn tất cuốn này giáo sư Breitman đã đọc rất nhiều tài liệu mật chỉ mới được Luân Đôn và Washington công khai hóa thời gian gần đây.
- Dửng dưng
Trước khi Thế chiến II chính thức bùng nổ sau khi Hitler xua quân đánh chiếm Ba Lan vào đầu tháng 9-1939, thế giới phương Tây đã thừa biết rằng Adolf Hitler là một nhà lãnh đạo Đức cực kỳ căm ghét người Do Thái. Từ năm 1925, Hitler đã viết trong cuốn Mein kamp về ý định sử dụng hơi độc để diệt người Do Thái. Không lâu sau khi lên cầm quyền, Hitler đã liên tiếp tung ra những chính sách thù nghịch chống người Do Thái, trước nhất là ở Đức rồi lan dần sang các lãnh thổ và quốc gia sẽ bị lính Đức chiếm đóng.
Nhưng thái độ của giới cầm quyền lúc ấy tại Washington, Paris, Luân Đôn rất dửng dưng. Trong một báo cáo gửi về Luân Đôn, Đại sứ Anh tại Berlin đã cảnh báo về khả năng sẽ phải đối phó với làn sóng người Do Thái tị nạn chính trị.

Quân Đồng minh giải phóng một trại tập trung tàn sát.
Mùa xuân năm 1941, tức trước khi diễn ra cuộc họp kinh khủng tại Wannsee (quyết định tiến hành Giải pháp cuối cùng, tức tàn sát sắc dân Do Thái khắp châu Âu), trong lâu đài của Heinrich Himmler, chỉ huy trưởng lực lượng SS, tại Wewelsburg cuộc họp kín giữa Himmler, Reinhard Heydrich và Kurt Daluege (phụ trách cảnh sát trật tự, tức mọi đơn vị cảnh sát thành phố, khu vực, cảnh binh và lính cứu hỏa). Họ nhất trí với nhau sẽ không dung tha bất kỳ người châu Âu gốc Do Thái nào. Dấu hiệu cho các cuộc tàn sát được bật lên qua việc quân đội của Hitler tấn công Liên Xô (Chiến dịch Barbarossa, ngày 21-6-1941).
Từ Berlin, Himmler chỉ huy và kiểm tra mọi cuộc bắt bớ và tàn sát người Do Thái. Những bức điện tín khẩn và tuyệt mật gửi về tổng hành dinh SS luôn nhắc đến những “biệt đội” thay cho đơn vị tàn sát; “đơn vị” hoặc “phần tử chống đối, thù địch” thay cho người Do Thái; “di tản” hoặc “nhiệm vụ đặc biệt” hoặc “chuyển dịch” thay cho tiêu diệt và “bình định hóa” thay cho thanh sạch sắc tộc. Những thử nghiệm hơi độc, lò thiêu được tiến hành, các trại tập trung tàn sát thi nhau mọc lên.
Tất cả những báo cáo, thông tin này đều được các sĩ quan SS gửi về cho Himmler. Nhưng chúng cũng đã bị Đồng minh giải mã ngay tức khắc!
Biết nhưng không phản ứng vì cần phải bảo vệ bí mật tiếp tục đánh lừa Đức Quốc Xã. Đó là chuyện có thật đã xảy ra từ mùa hè 1941. Không có bản tin mật nào của lực lượng cảnh sát trật tự của Berlin mà lại không bị Bletchley Park đọc được thật rõ ràng, đầy đủ rồi trở thành tài liệu tuyệt mật gửi đến bàn làm việc của Thủ tướng Churchill.
- Giả vờ không biết
Ông Churchill tìm cách nhấn chuông báo động thật khéo léo. Ngày 24-7-1941, trong bài diễn văn truyền thanh ông ca ngợi sự can đảm của chiến binh Liên Xô rồi nói thêm rằng, “Đã có mấy chục ngàn người châu Âu bị các đơn vị cảnh sát Đức Quốc Xã giết chết thật thẳng thừng, đây là những cuộc tàn sát quy mô, có kế hoạch hẳn hoi”. Bài phát thanh vừa dứt thì các sĩ quan cao cấp của S.i.s (Tình báo Anh) đã chê trách Thủ tướng Churchill có thể làm lộ bí mật khiến Đức sẽ sử dụng mật mã khác trong các bức điện mật. Sau đó các quan chức chuyên ngành truyền thông tuyên truyền cũng khuyến cáo nhà lãnh đạo Anh không nên hé lộ rằng những cuộc tàn sát ấy đã bị thế giới biết đến. Theo họ làm như thế chỉ có lợi cho Goebbels (phụ trách công tác tuyên truyền cho chính quyền của độc tài Hitler). Thủ tướng Churchill đành im lặng.
Tháng 7-1942, chính đài phát thanh BBC cũng từ chối phát đi lời kể của một nhân chứng đã tận mắt trông thấy lính Đức thẳng tay sát hại những người Đức gốc Do Thái bị bắt đưa vào các trại tập trung. Nhiều báo cáo kể rõ các vụ hãm hại người Do Thái đều bị đóng dấu Bí mật quốc phòng nên giới truyền thông ở Anh không dám loan tải.
Tuy nhiên thỉnh thoảng cũng có tin gây chấn động dư luận, chẳng hạn như tin vụ binh lính Romania (thuộc phe Trục) sát hại 25.000 người Do Thái tại Odessa đã được tờ New York Times đăng ở trang nhất. Tháng 6-1942, tờ Daily Telegraph phát hành ở Luân Đôn nhắc đến việc Đức Quốc Xã sử dụng các phòng hơi ngạt di động. Hoặc khi quân Đức tàn sát người Do Thái ở thành phố Lidice, Tiệp Khắc để trả đũa cho việc tên chỉ huy SS Reinhard Heydrich bị mưu sát.
Trước sự lên tiếng của người Anglo-Saxon gốc Do Thái tố cáo Luân Đôn cố tình làm ngơ không phản ứng mạnh chống lại chính sách diệt chủng Do Thái của Đức Quốc Xã, ông Archibald McLeish, một nhà thơ kiêm quản thủ thư viện được cử lãnh đạo Ủy ban Thông tin Chiến tranh nói rằng số 10 Phố Downing (nơi làm việc của Thủ tướng Anh) không nên quá chú tâm đến “tiếng vang từ nước Mỹ vì có nguy cơ sẽ làm cho phe Trục trả đũa mạnh hơn bằng cách giết các lính Đồng minh bị bắt làm tù binh chiến tranh”.
Chính sách làm ngơ này vẫn cứ tiếp tục được Luân Đôn thực hiện dù cho vào ngày 30-7-1942, ông Edouard Schulte, một nhà công nghiệp người Đức ở Breslau có nhiều hầm mỏ gần Auschwitz đã lên tiếng mô tả trại tập trung này có những lò thiêu người hiện đại ra sao và ý định thanh sạch toàn châu Âu khỏi sắc dân Do Thái của Hitler là chuyện có thật đang xảy ra như thế nào. Thế nhưng những gì ông Schulte kể và được Gerhart Riegner, đại diện Đại hội Do Thái toàn cầu, báo cáo lại cho Bộ Chiến tranh Anh, lại bị các quan chức Anh cho là “những lời đồn đại xuất xứ từ nỗi lo sợ người Do Thái”.
Những phản ứng thưa thớt và yếu ớt
Phải đến tháng 12-1942 thì lần đầu tiên phe Đồng minh mới có thông báo chính thức lên án chính sách diệt chủng Do Thái châu Âu của Đức Quốc Xã. Tác giả của bản tin tố cáo này là ông Anthony Eden, Bộ trưởng Ngoại giao Anh. Ông đọc bài diễn văn trong Quốc hội, mọi người đứng lên, dành một phút im lặng tưởng nhớ các nạn nhân. Và cuộc họp chấm dứt ! Đài BBC khai thác sự kiện này, vội loan tin bằng tiếng Đức kêu gọi người Do Thái nào còn sống sót thì hãy mau ẩn náu. 150.000 tờ truyền đơn được rải xuống Berlin nhưng chẳng có mấy hiệu quả. Chính Himmler phản ứng nhanh hơn khi đề nghị với Hitler nhân cơ hội này mà trao trả tự do cho một số nhân vật Do Thái quan trọng đổi lấy tiền chuộc hoặc nguyên vật liệu cần thiết cho nỗ lực chiến tranh. Những mối quan hệ thương lượng được mở ra với Thụy Sĩ và Thụy Điển. Nhưng Bộ trưởng Nội vụ Anh Herbert Morrison lên tiếng cản ngăn vì theo ông, “Nước Anh chỉ có thể nhận một số người Do Thái tị nạn rất giới hạn, từ 1.000 đến 2.000 là cùng, không thể hơn. Và số người này phải đưa đến đảo Man sống mãi đến khi nào hết cần thiết mới thôi !”.
Khi được hỏi ý kiến, các nhà quân sự Anh nói rằng giải pháp ném bom phá hủy các trại tập trung là không khả thi vì đường bay từ Anh đến Ba Lan quá xa. Họ cũng không đồng tình với chọn lựa oanh tạc các trại vì cho rằng làm như thế là cung cấp thêm cho Đức lý do để tàn sát người Do Thái nhanh hơn, nhiều hơn. Và phi công của R.A.F (Không lực hoàng gia Anh) sẽ bị đối xử thật tàn ác nếu như máy bay của họ bị bắn rơi trên đất địch và họ bị bắt làm tù binh.
Tháng 5-1943, khi nghe tin chính quyền Romania định thả tự do cho 70.000 Do Thái nếu như Anh đồng ý nhận, ông Eden tìm cách thoái thác bằng cách nói rằng Đức Quốc Xã sẽ gài vào đó hàng ngàn tên điệp viên.
Ngày 29-9-1943, Thụy Điển biết tin Đức sẽ trục xuất hết người Do Thái ra khỏi Đan Mạch nên ngỏ ý đón nhận 8.000 người. Thụy Điển thành công, đánh thức các tổ chức Do Thái ở Mỹ. Ngày 6-10-1943, một đoàn 400 giáo sĩ Do Thái giáo chính thống tổ chức diễu hành từ tòa nhà Quốc hội đến Nhà Trắng để phản đối thái độ làm ngơ của chính quyền Washington trước cuộc thảm sát người Do Thái. Ngày 22-1-1944, bị thúc bách bởi Bộ trưởng Ngân khố Henry Morgenthau, người Mỹ gốc Do Thái duy nhất trong chính quyền Mỹ, Tổng thống Roosevelt quyết định thành lập Văn phòng cứu giúp người tị nạn chiến tranh với mục đích tìm mọi cách cứu những người có nhiều nguy cơ bị Đức Quốc Xã tiêu diệt.
Nhưng chẳng có quan chức Mỹ, Anh nào thực sự tính đến giải pháp cho phóng pháo cơ bay đến ném bom hủy hoại trại tập trung Auschwitz. Mà dù họ có làm việc ấy vào thời điểm năm 1944 thì mọi chuyện cũng đã quá trễ. Đã có hơn một triệu người Do Thái châu Âu bị chết thảm trong trại này.
ANH VÂN tổng hợp
(Theo Paris Match, L’Express)