
LTS: Năm 2007, thị trường chứng khoán (TTCK) đã thực sự trở thành kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế và cũng là năm thị trường có những bước phát triển lớn. Nhân dịp đầu năm mới, ĐTTC đã có cuộc phỏng vấn Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), VŨ BẰNG (ảnh).
Kênh huy động vốn dài hạn
PHÓNG VIÊN: -Thưa ông, TTCK đóng góp cho nền kinh tế như thế nào trong năm qua?
Ông VŨ BẰNG: -Trong năm qua, tổng số huy động vốn qua đấu giá, phát hành trên thị trường chính thức đạt 90.000 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với tổng mức huy động vốn năm trước. Còn nếu tính riêng việc huy động vốn thông qua chào bán, phát hành thêm, thì tăng hơn 10 lần.
Cụ thể, năm 2006, phát hành chứng khoán ra công chúng 1.300 tỷ đồng theo mệnh giá, năm 2007 là 22.000 tỷ đồng, số tiền thu được hơn 30.000 tỷ đồng. Đó chính là lý do tại sao TTCK đã thực sự thành một kênh huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế.
Cuối năm 2006, mức vốn hóa của thị trường là 22,7%, năm 2007 tăng lên 39,4%; trong đó yếu tố tăng về khối lượng nhiều hơn, giá chỉ có mức độ (năm 2006 yếu tố giá tác động lớn, chiếm một nửa tỷ trọng tăng vốn hóa). Qua đó, có thể thấy quy mô tăng về vốn hóa vững chắc hơn.
-UBCKNN nhận định thế nào về hiệu quả, khả năng hấp thụ vốn từ các đợt huy động của doanh nghiệp?
-UBCKNN không can thiệp vào việc sử dụng vốn của doanh nghiệp, mà chỉ điều tiết thông qua cung-cầu trên thị trường để tính toán thời điểm có nên cho hàng hóa ra nhiều hay ít. Việc sử dụng vốn hiệu quả thế nào thì doanh nghiệp, hội đồng quản trị, nhà đầu tư, cổ đông phải tính toán, kiểm soát thông qua phương án chào bán và phương án sử dụng vốn. UBCKNN cấp phép trên cơ sở quy định pháp lý, trong đó phương án sử dụng vốn, thời điểm phát hành phải được công bố trung thực, rõ ràng. Việc lựa chọn thời điểm phát hành do doanh nghiệp quyết định.
Tất nhiên việc dự báo tình hình để lựa chọn thời điểm phát hành là công việc khó. Trong trường hợp cần thiết, doanh nghiệp có thể xin giãn thời điểm phát hành hoặc tạm hủy bỏ kế hoạch phát hành sao cho có lợi nhất cho mình.
-Trong năm 2008, khi một loạt doanh nghiệp lớn sẽ IPO, UBCKNN có những biện pháp, đề xuất gì để tránh đưa nguồn cung dồn dập ra thị trường?
-Đây thực ra cũng không phải phạm vi của UBCKNN. Nhưng ở góc độ cá nhân, tôi cho rằng nếu cung quá nhiều và dồn dập thì thị trường sẽ quá tải và sụt giảm. Do vậy, Nhà nước cần phải tính đến yếu tố thị trường khi phát hành.
Ở đây có câu chuyện: Anh ra hàng lớn, nhiều vào thời điểm thị trường bùng nổ thì có thể hút tiền nhiều. Nhưng khi thị trường điều chỉnh, sức cầu yếu thì lại nảy sinh vấn đề. Có mấy cách: Một là khi phát hành khối lượng lớn, phải tính kỹ thời điểm thị trường. Hai là phải có chính sách tác động về phía cầu. Vì rõ ràng tăng cung thì phải có chính sách kích cầu; trong đó phải tính đến các yếu tố về quỹ đầu tư, phát triển nhà đầu tư có tổ chức, đầu tư nước ngoài… để khi hàng ra có thể hấp thụ được.
Trung Quốc rút ra kinh nghiệm là không IPO đại chúng qua đấu giá nhiều, giảm bán cho nhà đầu tư cá nhân và bán cho nhà đầu tư chiến lược theo phương thức thỏa thuận. Khi lựa chọn được nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước, thì đối tượng này sau khi mua sẽ không được bán ra trong một số năm, nên không làm tăng lượng cung, đồng thời họ cũng giúp làm tăng giá trị doanh nghiệp lên. |
Cách ứng xử với vốn ngoại
-UBCKNN sẽ có những biện pháp nào để đón luồng vốn của nhà đầu tư nước ngoài dự kiến sẽ ồ ạt vào nước ta năm 2008?
-Năm 2007 số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài có trên 7.500 tài khoản, tăng gấp 3 lần so với năm 2006. Nhà đầu tư nước ngoài hiện đang nắm giữ 25-30% cổ phần của công ty niêm yết và doanh số giao dịch chiếm khoảng 18% giao dịch toàn thị trường. Giá trị danh mục đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chính thức ước đạt 7,6 tỷ USD (nếu gồm cả thị trường không chính thức ước khoảng gần 20 tỷ USD), tăng gấp 3 lần so với cuối năm 2006. Năm 2008, TTCK Việt Nam sẽ tiếp tục thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.
Cần có chính sách nhất quán với luồng vốn của nhà đầu tư nước ngoài và hoan nghênh, tận dụng nguồn vốn này đầu tư lâu dài ở Việt Nam. Bên cạnh đó, có chính sách mở rộng các quỹ đầu tư, hình thành nhiều quỹ, tổ chức đầu tư. Bởi nền kinh tế “khỏe” thì mới thu hút và giữ được nhiều nhà đầu tư nước ngoài và họ chỉ rút tiền ra khi nền kinh tế mất cân đối. |
Đối với TTCK, cần phải công khai, minh bạch, nâng cấp tốt công nghệ. Khi thị trường bền vững, tính thanh khoản cao thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ tham gia. Để thu hút đầu tư nước ngoài, theo tôi cần phải phát triển các kênh khác và cải cách về thị trường trái phiếu, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), bất động sản vì các kênh này liên thông với nhau.
Bởi chúng ta đều biết, khi vào thì nguồn vốn từ kênh đầu tư này có thể chuyển sang kênh kia và chuyện “đảo vốn” ngắn hạn giữa các kênh đầu tư là hoàn toàn có thể thấy được. Nếu thị trường cổ phiếu sụt giảm thì luồng vốn này có thể chuyển sang kênh khác và không rút ra khỏi Việt Nam. Theo kinh nghiệm của tôi, đối với TTCK mình không thể có các quyết định gây sốc được, mà phải làm từ từ, với thông điệp hoan nghênh luồng vốn đầu tư nước ngoài. Cách nào thì còn phải tính toán cụ thể.
Trọng tâm năm 2008: công nghệ và giám sát

- Thưa ông, năm 2008 là năm bản lề của kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm. Với UBCKNN, những vấn đề gì sẽ được tập trung để tạo bước đột phá trong năm 2008?
- Trọng tâm của ngành chứng khoán năm 2008 sẽ là công nghệ. Trước mắt là nâng cấp công nghệ chuyển sang giao dịch từ xa đối với Sở giao dịch và Trung tâm giao dịch chứng khoán. Đồng thời phải gấp rút triển khai hệ thống hiện đại, dự kiến áp dụng vào năm 2009.
Hệ thống đó sẽ chứa đựng tất cả chức năng của một thị trường hiện đại. Ví dụ như bao gồm cả đấu giá cổ phần, có cả thị trường chính thức, OTC, hệ thống lưu ký, thị trường trái phiếu, thị trường tương lai. Hệ thống này sẽ khắc phục được những điểm yếu hiện nay trên thị trường, hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư.
Tất nhiên triển khai có hiệu quả vấn đề này vẫn còn nhiều việc phải giải quyết, nhất là những vấn đề liên quan đến cơ chế để mua sắm, chi phí. Theo quan điểm của chúng tôi, nếu có một tổ chức đứng ra thầu và mua hết hệ thống, họ bảo trì, bảo hành và cho thuê là cách hay nhất.
Cách thứ hai là có hình thức ủy quyền nào đó thay vì phải trình qua các cấp để có thể chọn mua nhanh một hệ thống có sẵn và áp dụng luôn. Trọng tâm thứ hai của UBCKNN là nâng cao năng lực thanh tra, giám sát. Hiện nay, UBCKNN đã xây dựng xong chức năng, nhiệm vụ, nhân sự của Ban giám sát trình Bộ Tài chính duyệt. Khoảng cuối quý I-2008, ban này sẽ đi vào hoạt động.
Hiện nay thị trường đang phát triển nhanh, quy mô lớn. Đó là điều đáng mừng nhưng đi kèm theo nó, khi phát triển quá nhanh, thì cũng ẩn chứa và bộc lộ nhiều hạn chế. Điều quan trọng là phải nhìn thấy trước, củng cố ngay. Đối với TTCK điều cốt tử là tính an toàn. Đây là nội dung rất quan trọng. |
Trong công tác giám sát chúng tôi sẽ đẩy mạnh việc kiểm soát các tổ chức trung gian, tập trung vào kiểm tra việc mở tài khoản của khách hàng để kiểm soát việc sử dụng vốn khách hàng. Bên cạnh đó, còn xây dựng quy chế yêu cầu khách hàng tự quản trị rủi ro. Chúng tôi cũng sẽ tiến hành giám sát từ xa hoạt động của các công ty chứng khoán về tình hình tuân thủ, đặt lệnh… Vừa rồi UBCKNN cũng đã trao đổi thẳng thắn với các công ty chứng khoán, theo đó năm 2008 các công ty chứng khoán phải tuân thủ chặt quy định trong việc kiểm soát nhân viên của họ hoạt động phải tốt hơn, không thể để tình trạng ưu ái trong đặt lệnh cho khách.
Trọng tâm cuối cùng mà UBCKNN sẽ phải làm trong năm 2008 là tái cấu trúc thị trường vận hành hiệu quả hơn. Và tất cả những điều mà tôi vừa nêu cũng nhằm hướng tới xây dựng một TTCK Việt Nam hiện đại.
- Xin cảm ơn ông.
Hà My