Một trong những nội dung nằm trong chương trình nghị sự phiên họp thứ 41 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (sẽ diễn ra trong suốt tuần tới, từ ngày 14 đến 25-9) là kết quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế kể từ khi Việt Nam là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007.
Trước đó, tại Diễn đàn Kinh tế mùa Thu 2015 do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức, các ý kiến đã thống nhất nhận định, sau hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã tạo ra sự thay đổi về chất và ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Với những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam có thêm thế và lực mới để bước vào giai đoạn phát triển, nhiều cơ hội và thách thức đan xen. Tuy nhiên, như chính người đứng đầu Chính phủ nhận định tại báo cáo gần nhất trước Quốc hội: “Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng kinh tế có bước phục hồi nhưng môi trường kinh doanh và năng suất hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp trong khi yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng cao”. Còn theo Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, nguồn lực cho chính sách cải cách kinh tế Việt Nam, nguồn lực cho ngân sách quốc gia hiện nay còn khá mong manh. Bội chi ngân sách hàng năm vẫn tăng, tỷ lệ thâm hụt ngân sách nhà nước cao hơn trung bình các nước đang phát triển có thu nhập thấp trên thế giới và cao hơn trung bình của tất cả các nhóm nước đang phát triển thấp chia theo khu vực.
Là một lãnh đạo doanh nghiệp, ông Đặng Đức Thành, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Các nhà kinh tế, Ủy viên BCH Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhìn nhận, để nền kinh tế có thể cất cánh, các nước cần ít nhất đội ngũ doanh nghiệp tương đương trên 2% dân số. Điều này có nghĩa là Việt Nam cần ít nhất 2 triệu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Trong khi đó, mặc dù đã có trên 800.000 doanh nghiệp được thành lập trên cả nước, nhưng chỉ có khoảng 400.000 doanh nghiệp đang hoạt động với tình hình “sức khỏe” chưa thể yên tâm.
Sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO (tháng 1-2007) đến nay. “Một thời gian dài, doanh nghiệp Việt Nam phải chịu lãi suất ngân hàng rất cao. Lãi suất ngân hàng cao làm hao mòn vốn tự có của doanh nghiệp, trong khi rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh lỗ hoặc lợi nhuận thấp kéo dài. Các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa, càng khó khăn trong việc tiếp cận vốn. Và cuối cùng, trình độ quản trị của doanh nghiệp Việt Nam chưa theo kịp với những chuẩn mực quốc tế”, ông Thành nói.
Trong bối cảnh như vậy, năm 2015 đánh dấu một giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của Việt Nam, với việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN cùng hàng loạt hiệp định như TPP, các FTA với EU, Hàn Quốc, Liên minh Thuế quan… Áp lực hội nhập buộc Việt Nam phải tích cực cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư, khuyến khích mọi thành phần kinh tế.
Có rất nhiều biện pháp đã và đang được thực hiện, song vẫn theo ông Thành, doanh nghiệp hiện đang trông đợi vào hai nhóm giải pháp chủ yếu. Thứ nhất là điều chỉnh cơ cấu tín dụng, nhưng không phải bằng biện pháp hành chính mà sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Và theo hướng tập trung ưu tiên cho sản xuất kinh doanh, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao…; giảm bớt tín dụng cho khu vực doanh nghiệp nhà nước. Thứ hai, xây dựng và hình thành một hệ thống chính sách kinh tế hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ; trong đó có việc hình thành và đưa vào hoạt động các quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; hỗ trợ về mặt hoàn thiện thể chế thông thoáng cho các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ “mở” thành lập, hoạt động tại Việt Nam càng nhiều càng tốt; đẩy mạnh cải cách hành chính, hình thành hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam yên tâm làm ăn chân chính.
Từ một khía cạnh khác, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế VCCI, lại cho rằng, có 2 vấn đề lớn nhất mà doanh nghiệp đang rất cần sự hỗ trợ từ Nhà nước để hội nhập hiệu quả. Đó là cơ chế để có các tổ chức đại diện mạnh và hiệu quả, và được Nhà nước thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp trong các vấn đề liên quan tới cam kết hội nhập.
Tựu trung, có thể tạm ví đề xuất của hai vị đại diện cộng đồng doanh nghiệp nêu trên như một đôi cánh: một bên đem lại nguồn lực vật chất; bên kia đem lại sức mạnh phi vật chất. Với đôi cánh khỏe đó, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam mới có thể vừa đông về số lượng vừa mạnh về chất lượng.
ANH THƯ