Tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển bền vững

Tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển bền vững

Cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP-20

Hội nghị Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu (BĐKH) lần thứ 20 (COP-20) vừa diễn ra tại thủ đô Lima (Peru) với một kết thúc mà tất cả các thành viên đã có được sự đồng thuận nhất định. Là nước đang phát triển thứ hai trên thế giới (sau Singapore) đệ trình Báo cáo cập nhật 2 năm một lần (BUR) cho Ban Thư ký Công ước khí hậu, Việt Nam cam kết tạo môi trường thuận l cho các doanh nghiệp đầu tư vào các giải pháp giảm phát thải, phát triển kinh tế xanh, nông nghiệp bền vững, thải carbon thấp.

Quan điểm rõ ràng về ứng phó BĐKH

Tại buổi họp báo thông báo kết quả Hội nghị COP-20 diễn ra tại Hà Nội ngày 17-12 với sự tham dự của Bộ Tài nguyên - Môi trường, Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ NN-PTNT, Bộ Công an, Bộ Công thương, Bộ GTVT…, ông Nguyễn Văn Tuệ, Cục trưởng Cục Khí tượng - Thủy văn và BĐKH (Bộ TN-MT), thành viên đoàn đàm phán Việt Nam tại COP-20, nêu rõ: Theo đánh giá của Ban thư ký COP-20, Việt Nam đã có sự chuẩn bị rất kỹ càng và tham gia tích cực trong các hoạt động của hội nghị, bao gồm các phiên họp kỹ thuật và cấp cao. Đoàn Việt Nam đã chuẩn bị kỹ các phương án đàm phán chi tiết cho từng hạng mục của nội dung đàm phán và cử đại diện là những cán bộ có kinh nghiệm của các bộ, ngành và các cố vấn cho đoàn về kỹ thuật, chính sách để thực hiện phương án đàm phán tại các phiên kỹ thuật.

Kiểm tra và quản lý lưu lượng, chất lượng nước Kênh Đông phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững tại TPHCM. Ảnh: CAO THĂNG

Cụ thể về tham gia đàm phán ở cấp cao, Thứ trưởng Bộ TN-MT Trần Hồng Hà, Trưởng đoàn đã có bài phát biểu mạnh mẽ, nêu rõ tác động của BĐKH đến Việt Nam, các cố gắng Việt Nam ứng phó với BĐKH, các đóng góp của Việt Nam cho ứng phó BĐKH toàn cầu và nêu các đề xuất định hướng cho thảo luận xây dựng khuôn khổ pháp lý toàn cầu về BĐKH. Trưởng đoàn Việt Nam đã có các hoạt động rất tích cực ở cấp đa phương và song phương để tìm hiểu quan điểm, thúc đẩy tiến trình đàm phán BĐKH, bao gồm các cuộc gặp gỡ, trao đổi với các nước và các tổ chức như Đan Mạch, New Zealand, Hà Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thụy Sĩ, Ngân hàng Thế giới, GEF và NEDO.

Về tham gia đàm phán ở cấp kỹ thuật, các cán bộ đàm phán đã tích cực tham gia các nhóm nước để xây dựng dự thảo Quyết định của hội nghị và thỏa thuận toàn cầu về BĐKH. Đồng thời, tại các phiên họp toàn thể đã nhiều lần có đóng góp cụ thể của Việt Nam vào 2 tài liệu quan trọng này của hội nghị.

“Nể phục” khi Việt Nam đệ trình báo cáo cập nhật 2 năm một lần

Đặc biệt, tại COP-20 lần này, Việt Nam là nước đang phát triển thứ hai trên thế giới đệ trình báo cáo cập nhật 2 năm một lần (báo cáo BUR1) lần đầu tiên của Việt Nam cho Ban Thư ký Công ước khí hậu. Bản báo cáo nêu tóm tắt các hành động của Việt Nam góp phần cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với BĐKH toàn cầu. Hiện mới có Nambia, Việt Nam, Singapore và Chile là 4 nước đang phát triển đầu tiên trên thế giới đệ trình BUR1 trong thời gian COP20/CMP10 lần này. Việc sớm trình BUR1 là minh chứng cụ thể, thiết thực về thực hiện cam kết của Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với BĐKH toàn cầu cũng như hoàn thành nghĩa vụ của một nước đang phát triển tham gia Công ước khí hậu theo Quyết định 2.CP17 của COP17.

Báo cáo BUR1 nêu rõ: Chính phủ Việt Nam đã dành nguồn kinh phí đáng kể, khoảng 0,1% GDP cho các hoạt động ứng phó BĐKH. Việc hỗ trợ các đối tác phát triển từ viện trợ phát triển chính thức (ODA) để ứng phó với BĐKH lên đến khoảng 31%, phần lớn trong số đó dưới hình thức của các khoản cho vay (khoảng 97% trong giai đoạn 2004 - 2013). Cụ thể, bên cạnh nhu cầu tài chính thì Việt Nam cũng đã quan tâm nhiều đến hỗ trợ công nghệ trong các hoạt động ứng phó với BĐKH. Trong khuôn khổ của dự án “Đánh giá nhu cầu công nghệ toàn cầu” giai đoạn đầu năm 2012 với sự hỗ trợ tài chính và công nghệ từ Chương trình môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) thông qua đối tác UNEP-DTU (trước đây là Trung tâm UNEP Risoe), Việt Nam đã xác định 10 công nghệ ưu tiên nhằm giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động như năng lượng; nông nghiệp; sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và rừng (LULUCF), đồng thời xác định 10 công nghệ ưu tiên để thích ứng với BĐKH trong nông nghiệp, LULUCF, tài nguyên nước và quản lý vùng ven biển.

Liên quan đến nhu cầu về năng lực, Bộ TN-MT đã bổ sung và hoàn thiện các văn bản pháp luật để thực hiện Công ước khung của Liên hiệp quốc về BĐKH (UNFCCC) và ứng phó với BĐKH trong nước để đảm bảo sự phối hợp toàn diện và thống nhất từ trung ương đến chính quyền địa phương với sự tham gia của toàn xã hội; xây dựng, cập nhật và thu hẹp các kịch bản BĐKH là cơ sở để đánh giá tác động của BĐKH đối với việc phát triển và triển khai các kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH ở cấp địa phương; nâng cao năng lực và hiệu quả cảnh báo sớm và phòng chống thiên tai; nghiên cứu và ứng dụng công nghệ dự báo hiện đại trong dự báo khí tượng - thủy văn; đánh giá tài nguyên nước, tài nguyên khí hậu, BĐKH và tác động của BĐKH.

Ngoài ra, Bộ TN-MT cũng đã xây dựng năng lực cho các cán bộ đóng vai trò chủ chốt trong BĐKH và hành động giảm nhẹ khí nhà kính phù hợp với điều kiện quốc gia (NAMA); hệ thống đo lường, báo cáo và xác minh (MRV); dự án Cơ chế phát triển sạch (CDM) và Cơ chế tín chỉ chung (JCM) tại các bộ, ngành; phát triển một hệ thống cơ sở dữ liệu có thể được tích hợp thành cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thống kê để đáp ứng nhu cầu của bản kiểm kê khí phát thải nhà kính, ứng phó với BĐKH và các báo cáo định kỳ quốc gia về BĐKH…

Ngoài những nhu cầu về tài chính, công nghệ và tăng cường năng lực thì Việt Nam cũng nhận được nhiều sự hỗ trợ của quốc tế cho các hoạt động BĐKH. Cụ thể, trong giai đoạn từ 2010 - 2014, Chương trình hỗ trợ ứng phó với BĐKH của Việt Nam đã nhận được hơn 800 triệu USD. Việc kiểm kê quốc gia nhà kính năm 2010 trong báo cáo này là một trong những kết quả của dự án “Xây dựng năng lực cho hàng tồn kho khí nhà kính quốc gia tại Việt Nam”. Dự án này được tài trợ bởi Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản…

Trao đổi với phóng viên Báo SGGP, ông Phạm Văn Tấn, Phó Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam tại COP-20, cho biết: Việc sớm trình BUR1 là minh chứng cụ thể, thiết thực về thực hiện cam kết của Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế ứng phó với BĐKH toàn cầu cũng như hoàn thành nghĩa vụ của phía các nước đang phát triển tham gia công ước theo Quyết định 2.CP17 của COP17. “Điểm đặc biệt là không những đệ trình sớm mà Việt Nam còn không sử dụng tiền hỗ trợ của Liên hiệp quốc, tự mình hoàn thành báo cáo quan trọng này. Điều đó đã được chứng minh qua sự “nể phục” của các nước và đã có hàng chục đoàn của các nước đang phát triển khác đến học hỏi kinh nghiệm của Việt Nam về thực hiện báo cáo BUR1 của Việt Nam. Việt Nam tiếp tục cam kết tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào các giải pháp giảm phát thải, phát triển kinh tế xanh, nông nghiệp bền vững, thải carbon thấp”, ông Phạm Văn Tấn khẳng định.

Cam kết về tài chính quá thấp so với những gì đã hứa và so với kỳ vọng của các nước đang phát triển

Đó là 1 trong 2 điểm còn hạn chế của COP 20. Cụ thể: Nội dung đạt được tại hội nghị chưa đáp ứng được kỳ vọng của thế giới trước tác động ngày một rõ ràng và mạnh mẽ của BĐKH. Thời hạn các nước cần hoàn thành thỏa thuận toàn cầu ứng phó với BĐKH vào tháng 12-2015 đang đến gần; tuy nhiên, ngoài việc thống nhất được 5 thành tố cơ bản của thỏa thuận là thích ứng, giảm nhẹ, tài chính, tăng cường năng lực, chuyển giao công nghệ và minh bạch trong các hoạt động ứng phó, hỗ trợ, hình thức của thỏa thuận vẫn chưa được thông qua.

Cam kết về tài chính quá thấp so với những gì đã hứa và so với kỳ vọng của các nước đang phát triển. Cho đến nay, các nước phát triển mới cam kết đóng góp cho Quỹ Khí hậu xanh được 10,2 tỷ USD đến năm 2015. Đây là con số thấp hơn nhiều so với 10 tỷ USD các nước này đã đóng góp mỗi năm cho giai đoạn 2010 - 2012 và thấp hơn nhiều so với cam kết đóng góp nâng lên 100 tỷ USD/năm vào 2020 từ các nguồn tài chính công. Các nước đang phát triển đòi hỏi lộ trình đóng góp tài chính của các nước phát triển cần rõ ràng, minh bạch và cụ thể. Tuy nhiên, đòi hỏi này vẫn chưa thực hiện được trong khi việc thực hiện các giải pháp ứng phó với BĐKH tại các nước đang phát triển là rất cấp bách và cần nhận được hỗ trợ tài chính.

HẢI NGỌC - CHÂU TUẤN

Tin cùng chuyên mục