
(Tiếp theo và hết)
- Chiếc đồng hồ Vyler và cây bút máy Paker

Đồng chí Lê Duẩn thăm cán bộ, công nhân Nhà máy In Tiến Bộ năm 1980.
Năm 1946, tôi xung phong đi bộ đội. Tôi được theo học một lớp nghiệp vụ quân sự ở Quảng Ngãi. Một hôm, khi tôi đang học thì được báo là đến trụ sở Ủy ban Kháng chiến khu Năm có việc gấp. Khi tôi đến nơi, đã thấy ba tôi cùng các bác Phạm Văn Đồng, Phạm Văn Bạch, cả tướng Nguyễn Sơn đang ngồi nói chuyện.
Lúc chỉ còn hai cha con, ba tôi hỏi thăm tình hình công tác, học tập của tôi. Biết tôi đã tham gia kháng chiến cướp chính quyền ở Quảng Trị, là đội trưởng đội tự vệ ở địa phương, ba tôi lộ rõ vẻ hài lòng. Rồi Người nói với tôi bằng giọng rất nghiêm túc: Ba được Bác Hồ và Trung ương cử vào công tác ở Nam bộ, con có muốn đi kháng chiến ở Nam bộ hay không?
Tôi rất muốn nhưng lại nghĩ: “Lúc này, ba đã là người giữ trọng trách, mình nên có cách tự lập”. Thế là tôi trả lời: ba cho con được ở lại. Nghe tôi nói vậy, ba tôi nhìn tôi một lúc lâu rồi nói: Thế cũng tốt! Những ngày sau đó, mỗi khi có đoàn công tác từ Nam bộ ra, ba tôi thường nhờ các cô chú hỏi thăm tôi, bảo tôi cần gì thì nhắn lại. Tôi đã nhờ các cô chú nói với cha rằng, tôi cần một chiếc đồng hồ để xem giờ, một cây bút máy và … khẩu súng lục. Một thời gian sau, ba tôi gửi cho tôi một chiếc đồng hồ Vyler, một cây bút máy Paker. Còn súng lục thì cha tôi nhắn lại: “Chiến đấu với giặc, thu được chiến lợi phẩm mà dùng!”.
Có một việc xảy ra trong thời gian này. Một lần, khi được gặp các cô chú trong đoàn cán bộ từ Nam bộ ra, tôi được báo rằng, do hoàn cảnh công tác, ba tôi phải làm việc nhiều, rất vất vả, cần một người chăm sóc nên chúng tôi có thêm một người dì ở Nam bộ. Việc này đã được sự đồng ý của tổ chức. Tôi là người đầu tiên trong gia đình biết tin này. Lúc đó tôi nghĩ rằng: mẹ tôi phải nuôi ông nội và các em ở quê không thể vào giúp ba tôi được. Tuy đang ở cách xa ba tôi nhưng tôi thấy mình thật sự hiểu và chia sẻ với cha. Tôi mong được gặp cha biết bao! Nhưng ước mong ấy, phải đến 11 năm sau mới trở thành hiện thực.
- “Đây là con trai trưởng của tôi!”
Năm 1955 tôi được điều về Bộ Quốc phòng rồi đi học ở Học viện không quân Giucốp (Liên Xô). Năm 1957, nhân kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười, rất nhiều đoàn đại biểu cấp cao các nước sang Liên Xô tham dự. Trong Đoàn đại biểu cao cấp của Việt Nam sang dự lễ có Chủ tịch Hồ Chí Minh và ba tôi. Tôi và một số sinh viên đang học tại Liên Xô được cùng đại diện Đại sứ quán ra sân bay đón đoàn. Lúc ấy đã là mùa đông, tuyết bắt đầu rơi, trời rất lạnh. Tôi mặc áo khoác và đội mũ kín đầu, chỉ còn chừa đôi mắt.
Đứng ở dưới sân bay nhìn lên, tôi thấy Bác Hồ và ba tôi bước ra khỏi máy bay. Lúc ấy, trái tim tôi nghẹn lại với ý nghĩ, có lẽ ba sẽ rất khó nhận ra mình. Ấy thế mà, ngay sau khi xong phần nghi lễ đón tiếp của nước bạn, ba tôi đã tách đoàn đi đến chỗ chúng tôi đang đứng. Ông nói vội: Bây giờ ba phải đi với đoàn, ngày mai nghỉ ở đâu, ba sẽ báo để con đến thăm. Tôi lặng người vì xúc động. Ngay hôm sau, Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô cho người đến trường đón tôi đến gặp cha. Khi chúng tôi đến nơi thì ông đang có khách. Tôi ngồi đợi bên ngoài lòng bồi hồi khó tả. Cửa phòng mở, tôi thấy ba tôi tiễn ông Đặng Tiểu Bình. Hai người nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp. Nhìn thấy tôi, ba tôi gọi tôi đến gần và giới thiệu với ông Đặng Tiểu Bình: Đây là con trai trưởng của tôi! Ông Đặng Tiểu Bình nhìn tôi trìu mến rồi hỏi bằng tiếng Pháp: “Cháu học ở trường nào?”. Khi nghe tôi trả lời bằng tiếng Trung Quốc, ông “ồ!” lên ngạc nhiên rồi khen tôi nói giống giọng Bắc Kinh. Tôi nhìn thấy rõ niềm vui trong ánh mắt của ba tôi.
Khi ông Đặng đi rồi, tôi mới ngồi nói chuyện với ba tôi. 11 năm xa cách, bao nhiêu điều tôi muốn nói với cha. Trong giọng nói của ông, tôi cảm nhận ông không chỉ hài lòng với những tiến bộ của con trai mà còn lo lắng cho tôi thật nhiều. Một kỷ niệm tôi không thể quên là chính trong cuộc nói chuyện ấy, ông hỏi tôi đã thuộc bài Quốc tế ca chưa và dạy tôi bài hát ấy... Hai cha con đang nói chuyện thì Bác Hồ vào. Ba tôi đứng dậy và nói với Bác: Đây là con trai trưởng của tôi! Tôi thấy rõ mỗi khi nói câu đó, cha tôi rất vui sướng. Và ý nghĩ ấy làm tôi vô cùng hãnh diện. Bác Hồ hỏi thăm tình hình học tập của tôi. Tôi khoe với Bác: “Chắc cháu là người Việt Nam đầu tiên học tại trường này”. Nghe vậy, Bác Hồ cười: “Không phải, đồng chí Lê Hồng Phong đã học ở đây rồi!”.
- “Ba rất hiểu và thương các con!”
Năm 1964, tôi kết hôn với vợ tôi, một giáo viên dạy cấp 2. Tôi biết rằng, ba tôi rất quan tâm đến hạnh phúc riêng của tôi. Khi vợ tôi sinh cháu trai đầu lòng Lê Khánh Hải, ông rất vui. Biết vợ tôi vẫn có chút e ngại nên những khi cả nhà sinh hoạt hay ăn cơm chung, ba tôi thường ý tứ gắp thức ăn cho vợ tôi và dặn dò vợ tôi chú ý giữ sức khỏe để nuôi dưỡng cháu. Do hoàn cảnh công tác, tôi không thường xuyên ở nhà, vợ tôi phải cố gắng vượt nhiều khó khăn để nuôi dạy các con. Một lần, khi chỉ có hai vợ chồng tôi, ba tôi quay sang nói với vợ tôi: “Ba rất hiểu và thương con, con đã giúp đỡ rất nhiều cho chồng con. Thằng Hãn rất may mắn có một người vợ như con”.
Sự quan tâm ấy chứa đựng những tình cảm vô cùng sâu sắc. Ba tôi là người như vậy, đầy nhân ái, vị tha, trọn nghĩa, vẹn tình. Với ông nội tôi, ba tôi là người con vô cùng có hiếu. Khi đưa ông nội tôi ra Hà Nội ở cùng mẹ và các em tôi, dù bận việc thế nào thì hàng tuần, ba tôi đều cố gắng về thăm ông. Năm 1965 khi ông nội tôi mất, tôi đã nhìn thấy nỗi đau khôn cùng của ba tôi. Bên linh cữu của ông, tôi xót xa nhìn hình dáng ba mệt mỏi vì nỗi đau đớn.
Sau này, năm 1986, khi ba tôi ốm nặng, tự nhiên có một ngày cả hai vợ chồng tôi đều cảm thấy bồn chồn lo lắng không yên. Thế là chúng tôi quyết định đưa cả ba con mua vé từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội thăm ba tôi. Chúng tôi đưa các cháu đến thẳng nhà nghỉ Hồ Tây, nơi ba tôi đang dưỡng bệnh. Nhìn thấy ba tôi gày yếu và xanh xao, vợ tôi trào nước mắt. Ba tôi đưa mắt gọi cháu Hiếu (cháu Lê Ngọc Hiếu-con gái út của tôi) lại gần. Nhìn cháu cứ ôm chặt lấy ba tôi, tôi linh cảm những ngày các cháu được gần ông nội không còn bao nhiêu nữa. Tiếng cháu nói nhỏ “Con mong ông khỏe…” cứ vang bên tai tôi mới đau đớn làm sao! Đúng một tuần sau, ba tôi mất.
Tôi năm nay đã 79 tuổi đời, gần 60 tuổi Đảng. Lúc nào cũng vậy, nghĩ về cuộc đời mình, tôi luôn nhớ đến ba tôi. Tôi tự hào về cha tôi, bởi tấm lòng nhân hậu của ông, bởi tài năng, sự uyên bác và phẩm chất cách mạng cao quý đã đưa ông trở thành nhà lãnh đạo lỗi lạc của Đảng, bởi tình yêu sâu sắc của ông với Tổ quốc và nhân dân với một niềm tin không thể nào lay chuyển vào cuộc đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân. Và cuối cùng, tôi tự hào được mang dòng máu của cha tôi vì trong con người ông, bất chấp mọi thử thách nghiệt ngã của cuộc đời, không bao giờ mất đi khả năng tuyệt vời là biết xúc động và yêu thương tha thiết cuộc sống và con người.
HỒNG QUÂN-TRẦN TOÀN ghi