Trước nhiều hiểm họa do pháo nổ gây ra, Nhà nước ta đã cấm sản xuất, mua bán, đốt pháo và xử phạt rất nghiêm khắc các trường hợp vi phạm. Tuy nhiên, công tác quản lý đối với loại mặt hàng này vẫn còn nhiều khó khăn khi ý thức của người dân chưa cao.
Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị 406/TTg ngày 8-8-1994 về việc cấm sản xuất, buôn bán và đốt pháo. Từ đó đến nay, việc đốt pháo vào các dịp lễ tết bị cấm hoàn toàn. Ngoài ra, theo Điều 4 Nghị định 36/2009/NĐ-CP về quản lý, sử dụng pháo, thì hành vi sản xuất, mua bán, xuất nhập khẩu, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng trái phép các loại pháo nổ, thuốc pháo nổ, pháo hoa, thuốc pháo hoa đều bị nghiêm cấm. Chỉ có một số loại pháo nhất định được phép lưu hành như pháo hoa do Bộ Quốc phòng sản xuất, nhập khẩu để tổ chức bắn pháo hoa; pháo hoa được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cho phép và được Bộ Công an cấp giấy phép cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mang vào Việt Nam để dự thi bắn pháo hoa; các loại pháo hiệu dùng trong công tác cứu hộ, cứu nạn; pháo hoa lễ hội bằng giấy, pháo điện, pháo trang trí bằng giấy, bằng nhựa, bằng tre, trúc, kim loại; que hương phát sáng; các sản phẩm phát tín hiệu ánh sáng, màu sắc, âm thanh được dùng trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ không gây nên tiếng nổ.
Đã có quy định cụ thể như vậy, nhưng không ít cá nhân, tổ chức vẫn ngang nhiên vi phạm, thực hiện các hành vi mua bán, sản xuất và đốt pháo rất công khai. Pháo được nhập lậu với số lượng lớn qua biên giới và được bày bán nhiều nơi, đặc biệt là tại các vùng nông thôn. Nguy hiểm nhất là việc các thanh thiếu niên mua pháo về đốt và ném vào nhà người khác, vào các phương tiện đang lưu thông để trêu đùa. Những hành vi này đều bị coi là vi phạm pháp luật, tùy theo tính chất, mức độ mà có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Về chế tài hành chính, Điều 10 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định hành vi sử dụng các loại pháo mà không được phép có thể bị phạt tiền từ 1 triệu đến 2 triệu đồng; hành vi sản xuất, tàng trữ, mua, bán, vận chuyển trái phép pháo, thuốc pháo bị phạt tiền từ 5 triệu đến 10 triệu đồng. Ngoài ra, người vi phạm còn bị tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
Về chế tài hình sự, hành vi đốt pháo hay chế tạo, buôn bán các loại pháo, thuốc pháo sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự tương ứng với các tội danh khác nhau được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS). Cụ thể, Thông tư liên tịch 06/2008/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn: Hành vi đốt pháo nổ ở nơi công cộng, những nơi đang diễn ra các cuộc họp, những nơi tập trung đông người, ném ra đường, ném vào người khác, ném vào phương tiện khác đang lưu thông, ném từ trên cao xuống, đốt pháo nổ mang theo xe đang chạy, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng theo khoản 1 Điều 245 BLHS. Khung hình phạt cao nhất đối với tội danh này có thể lên tới 7 năm tù. Đặc biệt, nếu đốt pháo nổ gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác, thì ngoài việc truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh khác tương xứng với hậu quả nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác, ví dụ như tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác, quy định tại Điều 104 BLHS. Mức cao nhất của tội này là tù chung thân nếu dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác.
Đối với hành vi sản xuất hoặc chiếm đoạt pháo nổ, chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt thuốc pháo thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép, hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, quy định tại Điều 232 BLHS. Nếu mua bán hoặc tàng trữ, vận chuyển trái phép pháo nổ với mục đích buôn bán ở trong nước thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm, quy định tại Điều 155 BLHS. Việc áp dụng mức hình phạt sẽ căn cứ vào số lượng vật phạm pháp, trong đó số lượng tối thiểu có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháo nổ là từ 2kg trở lên và thuốc pháo là từ 1kg trở lên, hoặc dưới số lượng đó nhưng đã bị xử lý hành chính hoặc gây hậu quả nghiêm trọng.
Luật sư NGUYỄN ĐỨC HOÀNG
(Văn phòng Luật sư PHANS)