Đảng viên Cộng sản Việt Nam làm kinh tế

“Bóc lột” – “Giá trị thặng dư”

“Bóc lột” – “Giá trị thặng dư”

Vấn đề lý luận mang tính cốt lõi cần ưu tiên làm sáng rõ để việc nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam sớm nhận được sự đồng thuận là vấn đề nhận thức nội hàm khái niệm giá trị thặng dư.

Nội hàm khái niệm giá trị thặng dư được tiếp nhận từ lý luận kinh tế của Mác có thể gói gọn trong định nghĩa rằng: Giá trị thặng dư là giá trị do lao động của công nhân làm thuê sản sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của họ và bị nhà tư bản chiếm đoạt toàn bộ. Việc sản sinh và chiếm đoạt giá trị thặng dư là sự phản ánh quan hệ sản xuất căn bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phản ánh quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.

Trong hoạt động sản xuất, nhà tư bản phải chi vào việc mua sắm sức lao động và tư liệu sản xuất. Còn mục đích của nhà tư bản khi chi tiền ra mua sắm các thứ đó chẳng có gì khác hơn là nhằm thu được một số tiền dôi ra ngoài số tiền mà mình đã ứng chi trong quá trình sản xuất. Số tiền dôi ra đó chính là giá trị thặng dư.

“Bóc lột” – “Giá trị thặng dư” ảnh 1

Các tư liệu sản xuất như nhà xưởng, công trình kiến trúc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,... là tư bản bất biến. Nó không thay đổi lượng giá trị trong quá trình sản xuất mà chỉ chuyển hóa giá trị của nó sang các sản phẩm mới được sản xuất ra. Nó không thể là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Còn sức lao động thì trong quá trình tiêu dùng, tức là trong quá trình sử dụng nó vào lao động sản xuất, nó có khả năng tạo ra giá trị mới mà giá trị mới này lại lớn hơn giá trị của bản thân nó. Sức lao động là tư bản khả biến.

Nhà tư bản sử dụng tính chất khả biến đó vào mục đích tạo ra cho mình giá trị thặng dư. Chiếm đoạt toàn bộ giá trị thặng dư này là hành vi được gọi đích danh là “bóc lột”. Đó là nói chung, còn cụ thể, trong quá trình sản xuất, hành vi “bóc lột” giá trị thặng dư còn được nhà tư bản thực hiện bằng sự gia tăng giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối, tức là kéo dài tuyệt đối thời gian của ngày lao động, rút ngắn thời gian lao động cần thiết để sản xuất từng sản phẩm và tăng tương ứng thời gian lao động thặng dư. Việc tăng giá trị thặng dư còn được một số nhà tư bản thực hiện bằng cách hạ thấp giá trị của hàng hóa do xí nghiệp mình sản xuất so với giá trị xã hội của hàng hóa đó. Số giá trị tạo ra bằng cách này được gọi là giá trị thặng dư siêu ngạch.

Thực ra, giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ là một biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Chỗ khác nhau giữa chúng chỉ là một bên thu được do tăng năng suất lao động xã hội, còn bên kia - bên giá trị thặng dư siêu ngạch - thì được tạo ra nhờ biết áp dụng kỹ thuật mới, biết áp dụng công nghệ tiến bộ và các phương pháp quản lý hoàn thiện hơn trong tổ chức sản xuất.

Trong hoạt động kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch đều bị nhà tư bản chiếm đoạt, vì vậy mà luôn luôn có cuộc đấu tranh của công nhân làm thuê chống lại sự chiếm đoạt đó: Đấu tranh chống kéo dài thời gian làm việc trong ngày để chống bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối; đấu tranh chống việc nhà tư bản rút ngắn thời gian lao động cần thiết và tăng tương ứng lao động thặng dư để chống bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch.

Cuộc đấu tranh chống bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch về thực chất là sự phản ứng lại đối với những cải tiến trong áp dụng kỹ thuật mới, phản ứng lại sáng kiến trong ứng dụng công nghệ tiến bộ và việc áp dụng những phương pháp tổ chức sản xuất hoàn thiện hơn... Thật ra, sự đấu tranh của giai cấp thợ thuyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa để chống lại sự bóc lột giá trị thặng dư nói chung, là nhằm vào một chủ điểm: Chống việc nhà tư bản chiếm đoạt hoàn toàn giá trị thặng dư cụ thể là cả ba thứ giá trị thặng dư vừa nêu trên.

Như vậy, mục đích của cuộc đấu tranh này là nhằm giải quyết mâu thuẫn trong bản thân quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Còn việc làm thế nào để sinh ra ba thứ giá trị thặng dư lại không phải là nguyên nhân sinh ra cuộc đấu tranh; tức là mục đích đấu tranh của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là đòi phải phân chia các giá trị thặng dư cho đúng, cho hợp lý, hợp tình; ngăn chặn nhà tư bản chiếm đoạt toàn bộ các giá trị thặng dư.

Và tới khi mà yêu cầu căn bản này của giai cấp thợ thuyền không được thực hiện - nhà tư bản cứ thẳng tay bóc lột, lấy riêng cho bằng hết các loại giá trị thặng dư thì cuộc đấu tranh mới diễn ra quyết liệt hơn: Đình công, phá máy móc, phá nhà xưởng... hậu quả tổng thể của cuộc đấu tranh giai cấp này đối với xã hội là: Sáng kiến, phát minh khoa học, kỹ thuật bị hạn chế; năng suất lao động không được phát huy; phương pháp sản xuất không được cải tiến... dẫn tới tổng sản phẩm xã hội bị thu hẹp (!).

Các khía cạnh liên quan đến sự sản sinh và sự chiếm đoạt giá trị thặng dư như vừa đề cập ở trên phải được đặt gọn trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa; chúng được bảo hộ bằng nền chính trị (có khi cả quân sự nữa) của chủ nghĩa tư bản. Quá trình sản sinh, chiếm đoạt giá trị thặng dư cũng là viên đá tảng trong cấu trúc của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Sự chiếm đoạt giá trị thặng dư mà giới chủ tư bản thường xuyên thực hiện đối với những người sản sinh ra giá trị thặng dư được gọi là sự bóc lột. Đó chính là sự bóc lột mà giai cấp tư sản thực hiện đối với giai cấp công nhân làm thuê trong chế độ tư bản chủ nghĩa.

Vậy, rõ ràng, bóc lột giá trị thặng dư là sản phẩm của chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này cần đặc biệt nhấn mạnh. Ngộ nhận về điều này sẽ dẫn đến rối loạn khi chúng ta phải luận giải để trả lời các câu hỏi: Vậy thì cái được gọi là “giá trị thặng dư” trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thuộc về ai? Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa này sở hữu “giá trị thặng dư” có phải là hành động bóc lột hay không?

Khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, trong xã hội Việt Nam có một hình thái hoạt động vốn bình thường nay bỗng trở nên sôi động. Đó là hoạt động kinh tế tư nhân, bao gồm cả hình thái hoạt động kinh tế được gọi là “hoạt động kinh tế tư bản tư nhân”. Một trong những yếu tố quan trọng trong kết quả của hình thái hoạt động kinh tế này là số tiền dôi ra sau khi đã thanh toán tất cả các chi phí trả cho sức lao động và tư liệu sản xuất sẽ thuộc về ai. Số tiền dôi ra này nếu toàn bộ chỉ thuộc về người chủ tư bản tư nhân thì người chủ đó mới bị gọi là kẻ bóc lột.

Ở Việt Nam hiện nay thiết chế pháp lý về nguyên tắc phân chia số tiền dôi ra này không diễn ra như trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mà phải phù hợp với tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, ở đây phải chăng nội hàm của khái niệm “bóc lột” mà Mác đã từng nói về kinh tế tư bản chủ nghĩa đã bị tha hóa? Và một khi nội hàm của một khái niệm đã bị tha hóa thì nên chăng là hãy đặt cho khái niệm ấy một tên gọi khác, chẳng hạn như thay cái tên “bóc lột” bằng tên gọi “hưởng thụ thực lãi”. Hưởng thụ thực lãi từ sự phân chia lãi theo những nguyên tắc mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam chứ không phải là nhận lãi theo kiểu bóc lột trong kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, nếu ấn định được nguyên tắc phân chia lại giá trị thặng dư như đã nói ở trên, tức là phân chia công bằng, đồng thuận từ mọi phía thì cuộc đấu tranh giành giật giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch theo kiểu như dưới chế độ tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ tự thủ tiêu. Bởi vì số của cải dôi ra do kéo dài và rút ngắn thời gian lao động cần thiết để hoàn thành từng sản phẩm; nhờ biết áp dụng kỹ thuật mới, phương pháp tổ chức sản xuất hoàn thiện hơn và ứng dụng công nghệ tiến bộ... không phải bị nhà tư bản chiếm đoạt hết mà được phân chia cho mọi thành viên trong cơ sở sản xuất theo tỷ lệ thỏa thuận.

Giờ lao động bị kéo dài thêm sẽ không còn là lao động tha hóa mà trở thành lao động tự nguyện, lao động có ích, trong đó có ích cho bản thân mỗi người và có ích cho mọi người; sáng kiến, phát minh khoa học, kỹ thuật sẽ được khuyến khích, được áp dụng vì lợi ích chung. Như vậy là cuộc giành giật các giá trị thặng dư mà dưới chế độ tư bản chủ nghĩa đã làm tổn hại đến tổng sản phẩm xã hội, nay biến thành hợp đồng sản xuất, hợp tác lao động sáng tạo để không ngừng làm tăng trưởng cho tổng sản phẩm xã hội, tương ứng với sự tăng trưởng thu nhập cho mỗi thành viên của xã hội có tham gia sản xuất, có tham gia lao động sáng tạo.

Có thể hình dung một cách tổng quát nguyên tắc phân chia lại giá trị thặng dư mà đến đây xin được gọi là “nguyên tắc phân chia lãi” này như sau: Phần thứ nhất chia cho người bỏ vốn mua sức lao động và tư liệu sản xuất. Phần thứ hai chia cho toàn bộ thành viên của cơ sở sản xuất (chẳng hạn như là tổ chức công đoàn) để làm vốn tái đầu tư của mọi thành viên trong cơ sở sản xuất vào vòng quay sản xuất tiếp theo. Số vốn tái đầu tư này, qua một vòng quay tiếp theo của quá trình sản xuất, nó sẽ sản sinh ra một số lãi mới mà nguyên tắc chia số lãi mới này là cộng chung nó vào với giá trị thặng dư nguyên gốc để gọi chung là tổng giá trị thặng dư rồi chia cho mọi thành viên của cơ sở sản xuất theo tỷ lệ của mức lương.

Ví dụ: Tổng giá trị thặng dư của vòng quay thứ nhất là 500 triệu đồng; trong cơ sở sản xuất gồm 50 thành viên với tổng số lương được nhận trong thời gian hoàn thành vòng quay đó là 1 tỷ đồng, tức là tổng giá trị thặng dư của vòng quay sản xuất này bằng 50% số lương. Như vậy, mỗi thành viên tham gia sản xuất ở vòng quay này trung bình được lĩnh thêm một số tiền bằng 50% số lương gốc của mình. Lĩnh theo tỷ lệ lương, mà lương là sự phản ánh mức độ đóng góp sức lực, trí tuệ của từng người cho toàn bộ công việc sản xuất của vòng quay đó. Lương của mỗi người mỗi khác nên số tiền được lĩnh thêm của mỗi người cũng mỗi khác. Một thành viên nhận tổng số lương trong thời gian hoàn thành vòng quay đó là 20 triệu đồng thì được lĩnh thêm 10 triệu đồng nữa. Một thành viên khác lương chỉ có 10 triệu đồng thì chỉ được nhận thêm 5 triệu đồng. Còn người đóng góp sức lực, trí tuệ nhiều, hưởng lương lên tới 40 triệu thì được lĩnh thêm 20 triệu đồng nữa, v.v...

Tỷ lệ phân chia số tiền dôi ra các loại theo “nguyên tắc phân chia lãi” (tức có thể hiểu như là phân chia lại giá trị thặng dư) này cho người bỏ vốn và cho tập thể toàn bộ thành viên của cơ sở sản xuất (công đoàn cơ sở chẳng hạn) như vừa nói là sự thể hiện tính định hướng xã hội chủ nghĩa; là sự khác nhau cơ bản giữa sản xuất kinh tế tư bản chủ nghĩa và sản xuất kinh tế xã hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay của Việt Nam. Tỷ lệ phân chia đó được ấn định từ kết quả thỏa thuận giữa người bỏ vốn với tập thể các thành viên của cơ sở sản xuất trong đó có cả người chủ bỏ vốn.

Xin được lưu ý đặc biệt rằng, người chủ bỏ vốn đầu tư ngoài việc lĩnh tỷ lệ phần tiền dôi ra với tư cách là chủ, anh ta còn được nhận số tiền do công đoàn chia với tư cách là một thành viên của tập thể. Lương gốc mà anh ta nhận được tính gộp cả lương sản xuất cụ thể, cả lương lao động quản lý, cả lương sáng chế, phát minh,... của bản thân anh ta. Các thành viên của gia đình anh ta có tham gia sản xuất, quản lý... cũng nhận được sự phân phối theo nguyên tắc đó. Tỷ lệ phân chia này được ấn định theo mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo tinh thần thỏa thuận có tính chất nhân bản - tự nguyện vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.

Tỷ lệ phân chia đó khi gộp chung lại của toàn xã hội không là sức mạnh nhằm đào sâu hố ngăn cách giàu - nghèo; không tạo ra tình trạng một nhóm thiểu số, rất thiểu số lại sở hữu một số tài sản kếch xù của toàn xã hội trở thành giàu có tới vô độ, dẫn tới chỗ họ có thể dùng sự giàu có về kinh tế đó để khuynh đảo luôn cả hệ thống chính trị, quân sự; lũng đoạn cả hệ thống tư tưởng - triết học để lái đất nước lệch ra khỏi quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Về phía những người là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam thì chấp nhận hay không chấp nhận tỷ lệ phân chia theo cách này là tiêu chuẩn để đánh giá chất cộng sản Việt Nam của bản thân. Đối với cán bộ, công chức của bộ máy Nhà nước và của các tổ chức ban, ngành, hội, đoàn..., cũng phải lấy thái độ, mức độ ủng hộ phương hướng phân chia theo tỷ lệ này làm thước đo quan điểm và trình độ giác ngộ chính trị của mình đối với sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam hướng tới chủ nghĩa xã hội.

Hệ thống các cơ quan lập pháp căn cứ vào thực tế hoạt động kinh tế trên đất nước từng giai đoạn mà đưa vào luật, vào các văn bản dưới luật... những nguyên tắc phân chia theo tỷ lệ này. Đảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý; nhân dân làm chủ việc thực hiện cách phân chia tỷ lệ này. Tỷ lệ phân chia này không phải thực hiện đồng loạt cho mọi cơ sở sản xuất, mọi tổ chức sản xuất kinh tế. Lại càng không phải áp dụng trong mọi thời điểm.

Vận dụng hợp lý sự ấn định tỷ lệ đó cho từng lúc, từng nơi là chứng tỏ sự sáng suốt của hệ thống cơ quan lập pháp; là thuộc về nghệ thuật quản lý của Nhà nước; nghệ thuật lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; là thể hiện bản lĩnh của từng con người Việt Nam mong muốn xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam, những người cộng sản Việt Nam hằng mong muốn từ suốt 9 đại hội Đảng đã qua tới đại hội X lần này.

Từ sự trình bày, phân tích những khía cạnh cơ bản của vấn đề giá trị thặng dư như trên, chúng ta có thể đi đến mấy kết luận tổng quát như sau :

1. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, giá trị thặng dư phải được phân chia lại. Hành vi “chiếm đoạt” giá trị thặng dư mà với chế độ tư bản chủ nghĩa gọi là “bóc lột”, nay phải được thay thế bằng hành vi “hưởng thụ thực lãi” của hoạt động kinh tế. Do đó, nội hàm của khái niệm “bóc lột” theo cách hiểu trong phương thức kinh tế tư bản chủ nghĩa nay phải được nhận thức lại.

2. Tỷ lệ phân chia “quyền hưởng thụ thực lãi” trong hoạt động kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn hiện nay đặt trên cơ sở những nguyên tắc mang tính thỏa thuận, tự nguyện giữa mọi thành viên tham gia sản xuất, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.

3. Nguyên tắc phân chia “quyền hưởng thụ thực lãi” này là định mức hưởng thụ khác nhau cho từng loại thành viên có năng suất lao động và sáng tạo trong sản xuất khác nhau, thậm chí khác nhau giữa các thành viên cụ thể có năng suất lao động và sáng tạo trong sản xuất khác nhau của mỗi tập thể sản xuất, tùy theo mức độ đóng góp của loại thành viên ấy, của các thành viên cụ thể ấy - tức là làm nhiều được hưởng nhiều, làm ít được hưởng ít - đó chính là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu định hướng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam ngày nay.

4. Phủ định hình thái bóc lột bởi hình thái phân chia “quyền hưởng thụ thực lãi” không phải là làm trái với lý luận kinh tế của Mác mà chính là phát triển lý luận kinh tế của Mác. Lấy cách phân tích, lý giải của Mác về giá trị thặng dư trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mà soi sáng cho việc phân tích, lý giải về sự phân chia số tiền dôi ra trong hoạt động kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn hiện nay.

Đó chẳng phải là phát triển lý luận kinh tế của Mác thì còn là gì nữa? Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam giai đoạn hiện nay như vậy là không còn vấn đề bóc lột theo nghĩa mà Mác đã nói về nền kinh tế tư bản chủ nghĩa; không còn vấn đề giá trị thặng dư theo nghĩa mà Mác đã nói khi phân tích nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do đó, không thể đánh giá chất lượng của các Đảng viên Đảng Cộng sản hoạt động kinh tế qua sự “bóc lột” ít hay “bóc lột” nhiều mà phải đánh giá chất lượng các Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đang tham gia hoạt động kinh tế hiện nay qua thái độ chấp nhận nhiều hay chấp nhận ít, chấp nhận hay không chấp nhận nguyên tắc phân chia “quyền hưởng thụ thực lãi”.

Và, kết luận chung lại, vấn đề đặt ra về việc cấm Đảng viên không được làm kinh tế tư bản tư nhân thực chất là vấn đề cấm Đảng viên không được làm kinh tế dạng tư bản tư nhân mà không chịu chấp nhận sự phân chia “quyền hưởng thụ thực lãi” theo nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn lịch sử hiện nay - “Giai đoạn lịch sử Việt Nam hiện nay” mà tôi muốn nói là giai đoạn lịch sử bắt đầu bằng sự mở đầu công cuộc đổi mới năm 1986, qua các mốc quan trọng là thời kỳ thực hiện các nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam và sau đó tiếp tục ít nhất có lẽ là phải từ Đại hội X tới nhiều đại hội nữa của Đảng trong đầu thế kỷ XXI này.

PGS-TS. TRẦN TRỌNG ĐĂNG ĐÀN
(Nhà nghiên cứu Khoa học xã hội)

Tin cùng chuyên mục