Ở đâu, thị trường điện ảnh Việt Nam?

Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị, trung tâm kinh tế - văn hóa lớn. Tại đây, gần 100 năm qua, hoạt động điện ảnh dân tộc luôn hiện diện, sôi động; trở thành kinh đô nghệ thuật thứ bảy của đất nước. Hoạt động điện ảnh là một chu trình công phu đầy phức tạp, cần nhiều tài năng, vốn liếng, thiết bị hiện đại cùng thị trường rộng lớn; kể từ sáng tác, chế tác đến phát hành, chiếu phim. Các khâu trong chu trình khép kín đều này là những mắt xích kết nối chặt chẽ, tác động nhau hết sức sâu sắc. Nếu một trong các khâu đó nghẽn tắc, toàn bộ chu trình hoạt động rơi ngay vào ngưng trệ. Do đó, sức sống của thị trường phản ánh rõ nét sức mạnh sản xuất của điện ảnh quốc gia. Khi sản xuất trong nước yếu, vẫn có thể có thị trường mạnh, do được bù vào bằng tiêu thụ phim ngoại nhập; song khi thị trường yếu thì chắc chắn không thể có sản xuất mạnh. Thị trường điện ảnh, do đó có uy lực chi phối, thậm chí khuynh đảo xu hướng sáng tác cũng như quy mô sản xuất phim. Tầm quan trọng quyết định có tính nguyên lý của thị trường đối với toàn bộ hoạt động điện ảnh là ở đó.

Thời kỳ trước, với số lượng rạp chiếu khá dày đặc so với tỷ lệ cư dân, Sài Gòn luôn nhộn nhịp dưới ánh đèn chiếu bóng. Phương thức chiếu hồi đó khá đa dạng: có rạp chiếu “thường lệ” theo suất giờ quy định; có rạp chiếu “thường trực”, liên tục không theo suất; có rạp chiếu “chuyên đề”, hoặc chuyên chiếu phim cũ chọn lọc, hoặc chỉ chiếu phim võ thuật, phim của một quốc gia riêng biệt. Trong số gần 60 rạp cả sang trọng lẫn bình dân, rất nhiều rạp lớn quây tụ tại quận 1, quận 3 và rải rác trên nhiều quận khắp đô thành. Về sau, trải qua những thăng trầm khó lường trước, phần lớn rạp, với các vị trí đắc địa nhất đã tan rã, không còn tên. Nhiều rạp đã bị cải hoán thành cao ốc kinh doanh, sàn giao dịch chứng khoán, nhà hát, khách sạn, văn phòng, cửa hàng, nhà sách, shop thời trang, siêu thị… hoặc bị đập phá.

Đến nay, sau nhiều biến động, thị trường điện ảnh tại TPHCM đã có một bộ mặt khác hẳn: ngoài một số ít ỏi các rạp cũ còn lại hoạt động kém hiệu quả, đã xuất hiện loạt cụm rạp hiện đại được đặt riêng hoặc đặt trong các trung tâm thương mại lớn do các nhà đầu tư trong, ngoài nước dựng lên. Nếu năm 2008 doanh thu chiếu phim ở Việt Nam chỉ đạt 6 triệu USD, thì năm 2013 con số này đã tăng 10 lần, đạt 60 triệu USD. Theo thống kê của tạp chí Hollywood, tỷ suất gia tăng của doanh thu chiếu bóng Việt Nam đến năm 2012 đạt mức kỷ lục là 614% - mức tăng nhanh và cao nhất trong số 13 thị trường điện ảnh nóng nhất thế giới. Kết quả này cho thấy tiềm năng hết sức to lớn của thị trường điện ảnh 90 triệu dân của chúng ta, cùng tầm quan trọng của việc quản lý, làm chủ thị trường này - không chỉ về doanh thu mà cả về tác động tổng hợp đối với xã hội và công chúng.

Để phục hưng hoạt động điện ảnh, nhà nước ta đã ban hành Chiến lược và Quy hoạch phát triển điện ảnh dân tộc đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; trong đó thiết kế cụ thể phương hướng cùng các chỉ tiêu cần đạt được đối với khâu chiếu phim: Tăng cường vai trò điều tiết của nhà nước đối với hoạt động phát hành - phổ biến phim; xây dựng thị trường điện ảnh thống nhất; đảm bảo tỷ lệ phim truyện Việt Nam tại hệ thống rạp đạt 40% vào năm 2020 và 50% vào năm 2030; phát triển thị trường nội địa song song với phát triển thị trường quốc tế; hiện đại hóa công cụ phổ biến phim nhằm đạt hiệu quả thương mại tối ưu; nâng cấp và xây mới hệ thống rạp trong cả nước; phát triển các công nghệ chiếu phim hiện đại 3D, 4D…

Hành động kịp thời và hiệu quả để giành lại, ổn định và phát triển thị trường điện ảnh vào thời điểm này là đã chậm trễ, nhưng vẫn hết sức bức bách, cần thiết. Điện ảnh là bộ môn nghệ thuật quan trọng bậc nhất, vừa có khả năng đồng thời tiếp cận đông đảo công chúng, trực tiếp truyền đạt tư tưởng, tình cảm, thẩm mỹ, vừa có sức mạnh kinh doanh nội địa và xuyên quốc gia, mà không nghệ thuật nào khác có thể sánh bằng. Để điện ảnh phát huy sức mạnh xã hội vốn có, phải cùng lúc chăm lo cả khâu sản xuất lẫn khâu tiêu thụ. Thị trường điện ảnh Việt Nam - trong đó có TPHCM, hiện đã và đang tuột khỏi bàn tay quản lý truyền thống của nhà nước, trôi tự do theo hướng kinh doanh đơn thuần, cơ bản chỉ đáp ứng lợi ích kinh tế của các nhà đầu tư. Khi xa rời thị trường chiếu phim, tức là lúc mất quyền chủ động điều phối phổ biến phim trong thực tế, lúc đó phim Việt sẽ dễ dàng “nhẹ nhàng” bị loại ra khỏi sân chơi dưới nhiều lý do khác nhau, ngay chính trên sân nhà.

Do vậy, ngay lúc này, cần nhận thức và hành động sát hợp, kịp thời; tăng cường quản lý nhà nước một cách hiệu quả với chính sách, cơ chế phù hợp; đồng thời thực hiện thấu đáo quy hoạch phát triển điện ảnh, nhằm thiết thực bảo vệ thị trường điện ảnh - cũng là thiết thực bảo vệ nền điện ảnh dân tộc phát triển đúng hướng, vững bền.

PGS-TS TRẦN LUÂN KIM

Tin cùng chuyên mục